Xu Hướng 12/2023 # Cách Tính Ngày Trùng Tang – Nhập Mộ – Thiên Di # Top 17 Xem Nhiều

Bạn đang xem bài viết Cách Tính Ngày Trùng Tang – Nhập Mộ – Thiên Di được cập nhật mới nhất tháng 12 năm 2023 trên website Gdcn.edu.vn. Hy vọng những thông tin mà chúng tôi đã chia sẻ là hữu ích với bạn. Nếu nội dung hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất.

Dân gian Á Đông xưa rất quan tâm đến nghi thức an táng cho người vừa mới mất. Người xưa cho rằng người ruột thịt vừa mất có ảnh hưởng tốt, xấu tới những người thân cùng huyết thống đang sống.

Sự Kiện Quan Trọng Nhất Trong Cuộc Đời

Pháp sư Tịnh Không

Con người vốn do tâm thức và thể xác hòa hợp thành, tâm thức không biến hoại nhưng thể xác thì biến hoại tuân theo quy luật sanh lão bệnh tử. Mỗi khi tâm thức rời khỏi thể xác hơi thở không còn hơi ấm tiêu tan đời sống chấm dứt gọi là chết, sự thật thể xác có chết nhưng tâm thức thì không mất.

Khi hơi thở người bệnh không còn nữa tâm thức không phải lúc đó đã rời khỏi thể xác. Vậy ngay khi người bệnh chấm dứt hơi thở tâm thức bao lâu thì rời khỏi thể xác? Nhanh lắm là ngay sau khi mới chết chậm lắm là một hai ngày. Trên thực tế trường hợp nhanh và chậm rất ít xét chung là khoảng từ mười đến mười hai giờ đồng hồ thần thức sẽ rời khỏi thể xác. Đôi khi người bệnh đã chấm dứt hơi thở trong khoảng một vài ngày đột nhiên sống lại việc đó do hai nguyên nhân. Một là thần thức chưa rời khỏi thể xác hai là thần thức đã rời nhưng nhập trở lại.

Căn cứ trên thực tế đã xảy ra, vì thế chúng ta đối với việc lớn lâm chung ngàn vạn lần nên thận trọng. Người đời nhận thức sai lầm cho rằng người bệnh sau khi hơi thở chấm dứt là chết, ngay đó bèn khám nghiệm tử thi va chạm khiến người bệnh phải chịu vô vàn sự thống khổ. Nhân đây, quyển sách nhỏ này sẽ cung cấp các kiến thức thông thường khi lâm chung, để kêu gọi mọi người trong xã hội đối với việc trước và sau khi chết cần nên để ý và làm cho đúng pháp.

Thể xác thì biến hoại nhưng tâm thức không bao giờ mất. Gia đình nên chú trọng tâm thức của người chết, cần làm cách nào để thần thức không thống khổ; cần làm cách nào để có sự an tịnh; thần thức có những nhu cầu gì; cần tiếp dẫn thần thức đi về thế giới nào; cần làm việc gì để thần thức có lợi và tránh những việc gì gây tổn hại cho thần thức… Các vấn đề nêu trên là vô cùng quan trọng.

Người đời tuy có kiền thức sâu rộng nhưng đối với việc lớn lâm chung thì hoàn toàn không biết. Họ thường bảo: “Con người khi hơi thở chấm dứt là chết, chết là hết là đoạn diệt đó là lẽ tự nhiên”. Họ chỉ lo làm cách nào để tang ma to lớn, mọi người khen ngợi mà chẳng quan tâm đến sự lợi ích của người chết. những nhận thức của việc làm nông nỗi này khiến người chết vô cùng bi ai thống khổ, việc làm như thế không phải là người có trí tuệ.

Họ không biết hơi thở tuy không còn nhưng thần thức người chết vẫn chưa rời thể xác, người chết không chỉ còn ở trạng thái hấp hối có cảm giác mà cảm thọ của họ lúc này tột cùng đau đớn như rùa bị lột mai. Do đó, trước khi thần thức chưa rời thể xác người bà con cần đặc biệt quan tâm, nên đem những lời Phật pháp khai thị, với âm thanh trong trẻo dịu dàng để an ủi người bệnh khiến cho tâm họ được an lạc và có chỗ quy hướng.

Cho nên khi người bệnh vừa mới chấm dứt hơi thở, bà con không được di chuyển thân thể không được bi ai khóc lóc khiến thần thức người bệnh phải bi lụy. Đồng thời phải nên để tâm suy nghĩ giờ này thần thức đang ở đâu? Cần biết thần thức sẽ tùy theo nghiệp lực thiện ác để cảm thọ cảnh giới khổ đau hay hạnh phúc nào? Cần làm cách nào để tiếp độ thần thức ra khỏi ba cõi đạt đến sự an vui Niết bàn tịch tịnh? Những việc này người đời hoàn toàn không hay biết.

Người đời không biết lúc nào thần thức rời khỏi thể xác; không biết xót thương nỗi thống khổ của người chết; không biết tác dụng của việc cứu độ; không biết tẩm liệm đúng cách thức… Nói cách khác, đối với nguời chết việc cần làm thì họ không làm việc không nên làm thì họ lại làm, có thể nói không quá đáng đó là hạng người điên đảo không trí. Đối với vấn đề quan trọng “Chết” họ quy về thái độ bàng quang không hay biết, đã phụ ơn bà con lại phụ ơn hiếu đạo, chỉ làm cho xong việc cam tâm biến thành nhận thức sai lầm, như thế người sống đối với người chết há không phải là quá lạnh lùng hay sao?

Người bệnh sau khi hơi thở chấm dứt nhưng thần thức vẫn chưa rời thể xác nên họ vẫn còn tri giác. Phải trải qua một thời gian đến khi toàn thân lạnh hẳn thần thức rời thể xác ngay đó mới được gọi là chết.

Sau khi chấm dứt hơi thở trước khi thần thức chưa rời thể xác, thời điểm này tâm thức vô cùng thống khổ. Bởi do cảm thương thân phận đã chết mà rơi nước mắt; cũng nhân tham luyến thế gian thương yêu vợ con tài sản mà khó buông bỏ; hoặc nhân tâm nguyện chưa thành đột nhiên cái chết đến mà bi ai sầu não; hoặc nhân oan ức chưa bày tỏ mà không chịu nhắm mắt, vì thế vào thời điểm này là thời điểm mà mọi sự bi ai khổ não chồng chất. Nếu thể xác bị người sống xê dịch hoặc nghe tiếng kêu khóc, há chẳng làm cho thần thức muốn rời thể xác nhưng không rời được cảm thọ nỗi đau đớn vô vàn. Người sống nỡ nào lại nhẫn tâm như thế để làm hại người chết hay sao?

Người đời phần nhiều không hay biết cho rằng con người khi hơi thở chấm dứt là chết, do sự ngộ nhận này mà kết thành đại họa. Cho nên với những việc làm có hại bà con và con cháu hiếu thuận không thể không biết để tránh.

Lấy việc xê dịch thể xác người chết mà nói, chỉ cần người bệnh vừa mới chấm dứt hơi thở ngay đó bi ai khóc lóc hoặc sờ mó cơ thể mà kêu gào, hoặc tự ý chuyển đổi thế nằm, hoặc trước khi thân thể chưa lạnh hẳn mà vội tắm rửa thay quần áo, hoặc tiêm thuốc hồi dương, hoặc tiêm thuốc đề phòng thân sình thúi, hoặc mới chấm dứt hơi thở đã tống vào nhà xác, hoặc ngay trong ngày đã tẩm liệm, hoặc mới hai ba ngày đã hỏa táng …Tất cả những việc làm tàn nhẫn này, vì thần thức chưa rời thể xác nên người chết vẫn còn cảm giác vẫn phải cảm thọ tận cùng của sự thống khổ. Người sống làm các việc như thế tác hại đối với người chết không nhỏ khiến họ lâm chung thống khổ đọa lạc, thế là từ chỗ thương yêu mà trở thành tàn hại như thế không đáng sợ hay sao.

Không biết rằng lúc thần thức chưa rời thể xác, người chết vẫn có sự thống khổ đồng như người sống. Người sống còn có thể kêu la cầu cứu kháng cự lại; còn người chết lúc này tuy vô cùng đau khổ nhưng không có cách nào kêu cứu kháng cự khiến họ nổi tâm sân hận. Người thế gian không hiểu một số vấn đề bình thường khi lâm chung khiến dẫn đến một số hậu quả bi thảm như thế há không đau đớn lắm sao. Người bệnh do sự thống khổ nên sanh tâm sân hận khiến thần thức đọa lạc trong ác thú, thế mà kẻ làm con hiền cháu thảo vẫn cứ dửng dưng không hay không biết.

Nhân đây tôi xin kêu gọi mọi người, với người bệnh sau khi mới chấm dứt hơi thở trước khi thần thức chưa rời thể xác, trong khoảng thời gian từ mười đến mười hai giờ đồng hồ, phòng người bệnh nên duy trì sự yên lặng không có các việc chuyển động như trên đã nói, để bảo hộ thần thức người chết được yên tịnh và an ổn. Tư thế người bệnh nằm nên để tự nhiên không được xê dịch.

Sau khi toàn thân lạnh hẳn, chúng ta lấy vải cũ nhúng vào nước nóng rồi áp vào các bộ phận cong rút của cơ thể khiến cho mềm mại. Còn bằng trong khoảng thời gian trước mười đến mười hai giờ đồng hồ, chúng ta không nên dùng tay thăm dò hơi nóng không được để mèo chó va chạm, trong phòng bệnh không được nói chuyện tạp hoặc khóc lóc. Cần vận dụng trong khoảng thời gian này có biện pháp cứu độ hướng dẫn thần thức người bệnh hướng đến cảnh giới an lạc làm cho họ được vãng sanh Tịnh độ hưởng thọ mọi điều vui, đây là trách nhiệm của người bà con cũng là việc làm đúng hiếu đạo của con cái đối với người quá cố.

    Thần thức lúc nào mới rời thể xác

    Thần thức rời thể xác nhanh hay chậm cùng với nghiệp lực con người tạo ra có mối quan hệ trực tiếp. Nói một cách đơn giản, người nghiệp lực cực thiện hay cực ác cho đến người được vãng sanh thì thần thức rời thể xác rất nhanh. Còn hạng phổ thông bình thường việc thần thức rời thể xác chậm hơn. Ví như người khi sống có tâm hiếu dưỡng cha mẹ nhân từ bất sát giúp đời cứu người…bởi nghiệp nhẹ nên khi chấm dứt hơi thở, thần thức trực tiếp sanh về cõi lành (Nhân đạo, Thiên đạo). Lại hạng người khi sống nham hiểm độc ác ngỗ nghịch bất hiếu sát sanh hại vật… do vì nghiệp nặng nên khi mới chấm dứt hơi thở, thần thức trực tiếp sanh về cõi ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh).

    Còn người sanh tiền phát tâm niệm Phật lâm chung mong cầu từ lực Phật tiếp độ; hoặc tu thiền định chứng Vô sanh pháp nhẫn đã ra khỏi Tam giới. Hạng người đó sẽ biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ tâm không phiền não vui vẻ niệm Phật hoặc nhập định mà rời thể xác, trực tiếp vãng sanh Tịnh độ hay chứng đắc Thánh quả hưởng thọ vô lượng điều vui. Còn lại hạng người phổ thông bình thường nghiệp lực không thuộc cực thiện hay cực ác, thần thức rời thể xác sẽ chậm hơn. Thời gian nhanh và chậm có khác nhau, do đó ước định từ khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở là vậy.

    Sau khi thần thức đã rời thể xác trước khi chưa thọ thân quả báo đời sau, trong khoảng thời gian này thần thức sẽ thọ thân trung ấm. Có người sau khi thọ thân trung ấm chỉ qua một hai ngày thì thọ thân quả báo đời sau có người một hai tuần thọ thân quả báo đời sau, nhưng tối đa là bảy tuần quyết định sẽ có chỗ cho thần thức thọ sanh.

    Nói chính xác, chỗ thần thức rời thể xác là phần lạnh sau cùng của cơ thể, nhưng tối kỵ việc dùng tay thăm dò hơi nóng trên thân thể người chết. Vì thế, từ khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ là có liên hệ tình hình như bài trên đã nói. Nhưng nên xem thời tiết nóng hay lạnh hoặc địa phương có thích nghi hay không thích nghi, rồi ước lượng khả năng mà đem thời gian thăm dò hơi nóng người chết co lại hoặc kéo dài một chút đều có thể được.

      Thần thức rời thể xác đi về đâu

      Không gian không ngằn mé gọi là vũ, thời gian không cùng tận gọi là trụ. Ở trong khoảng vô cùng vô tận của vũ trụ, tất cả thần thức đều có sự tiếp xúc với các cảnh giới mà cảnh giới đó cũng vô lượng vô biên. Nói khái quát, cảnh giới Thánh nhân có bốn cảnh giới phàm phu có sáu. Tâm thể của mười cảnh giới này vốn đồng, nhưng vì sự mê ngộ nhiễm tịnh của mỗi loài bất đồng mà hình thành phàm Thánh, giải thoát hay trói buộc ngàn muôn sai biệt. Đây là nói việc làm Thánh hay phàm, hoặc hưởng thọ khoái lạc giải thoát tự tại, hoặc lãnh thọ thống khổ nghiệp chướng trói buộc đều do tự tâm cảm thành tự tâm là chủ tể.

      Nhưng nay là thời Mạt pháp nếu hoàn toàn nương vào tự lực mà mong cầu chứng ngộ, vạn người tu khó được một hai người. Chúng sanh thời nay phần nhiều si ám mê nhiễm hư vọng điên đảo nghiệp trọng phước khinh chướng thâm huệ thiểm, như thế thì không mãi mãi trôi lăn trong Tam giới hay sao?

      Đức Thích Ca Thế tôn nhân đó xót thương nên đặc biệt mở ra pháp phương tiện, chỉ bày pháp môn niệm Phật rất đơn giản mà dễ thành tựu. Ngài dạy rằng ở thế giới Tây phương có đức Phật A Di Đà, vị Phật đó nguyện lực rộng lớn, không luận là người thượng trí hay kẻ hạ ngu người hiền lương hay kẻ độc ác, chỉ cần hồi đầu hướng thiện phát tâm tín sâu nguyện thiết thành khẩn xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật một lòng cầu nguyện vãng sanh thế giới Cực lạc, khi mạng chung Phật và Thánh chúng sẽ đến tiếp dẫn. Người đó ở trong khoảng một niệm liền được vãng sanh, vĩnh viễn thoát ly nỗi thống khổ luân hồi mãi mãi thọ hưởng sự an vui thắng diệu.

      Nhân đây, tôi xin diễn bày pháp cứu độ trước và sau khi lâm chung ứng dụng vào thời điểm nguy ách này. Ngoài việc không được xê dịch cơ thể không bi ai khóc lóc ra bà con và bạn bè ở trong phòng bệnh nên giữ yên lặng để tâm và cảnh an tịnh, nên vì người bệnh mà đồng thanh xưng niệm Phật hiệu A Di Đà để dẫn dắt thần thức người bệnh nghe danh hiệu Phật, sanh lòng hoan hỷ, trong tâm duyên theo tiếng niệm Phật, tâm cảnh người bệnh sẽ khai sáng có cảm giác an toàn một lòng cầu sanh nước Phật, quyết định được vãng sanh thế giới Tây phương Cực lạc.

        Người bệnh cần nên có nhận thức

        Tất cả các pháp trong thế gian đều do nhân duyên mà sanh huyễn hóa mà có. Bởi do nhân duyên hư vọng hòa hợp mà có sanh, nhân duyên hư vọng biệt ly mà có diệt. Duyên tụ thì huyễn có duyên tán thì huyễn không. Cho nên tất cả các pháp từ xưa đến nay chẳng khác nào như bóng trên mặt nước, cảnh hiện trong gương, lửa xẹt điện chớp, tợ như nhậm mắt thấy hoa đốm giữa hư không. Thân tứ đại này vốn bọt bèo huyễn chất không bền, già suy bệnh chết khổ không vô thường. Đó là quy luật tất nhiên của sanh diệt biến dị đổi dời trong sát na không dừng. Cho nên cuộc đời con người rốt cùng cũng có một điểm cuối, thế gian chỉ là quán trọ ven đường ta chỉ là kẻ lữ khách tạm nghỉ chân đôi chút mà thôi.

        Đời người vài mươi năm, không những đã ở trong vòng danh lợi vật dục, được mất hơn thua, hội hợp chia ly, oán tắng ái biệt, thiên tai hỏa hoạn, sanh kế bức bách, phiền muộn lo toan, thù địch oán đối mà còn đời đời kiếp kiếp bỏ thân này lại thọ thân khác, nhân quả nối tiếp kiếp mãi xoay vần không thoát ngoài tứ sanh, trầm luân ngũ thú, trong cảnh huyễn sống huyễn chết vạn khổ chồng chất, thân tâm huyễn thọ sự thống khổ như thế nhưng chưa bao giờ có sự tỉnh ngộ.

        Nên nghĩ tất cả các pháp trong thế gian đều là sanh diệt vô thường, đều là mộng huyễn không thực. Lại nghĩ nỗi thống khổ của ba ác đạo dễ vào mà khó ra, cõi người thì trược ác, phước trời thì dễ hết nhưng nghiệp nhân mỗi khi đã tạo khó mà tránh khỏi. Giả sử bị trầm luân trong ba cõi thì uổng thọ sanh tử luân hồi không có hạn kỳ. Vì thế chúng ta nên tinh tấn nhanh chóng hồi đầu, đem tất cả việc nhà thảy đều buông bỏ, đối với các pháp đều không tham luyến mà một lòng quy hướng về với Phật A Di Đà cầu nguyện vãng sanh thế giới Cực lạc.

        Mỗi niệm mỗi niệm đều kiên cố đến khi mạng chung nhất định sẽ được Phật hiện thân đưa tay tiếp dẫn. Nghĩa là đức A Di Đà Phật cùng với Thánh chúng đồng đến đón tiếp, trong khoảng khảy móng tay liền được vãng sanh thế giới Di Đà thanh tịnh. Từ đây siêu phàm nhập Thánh thần thông tự tại thọ mạng không cùng, ra khỏi Tam giới thoát hẳn sanh tử, đây là hạng người có đại trí tuệ. Hoặc như mạng sống chưa hết thì nhờ công đức niệm Phật, quyết định tiêu trừ tội chướng thọ mạng thêm bền.

        Nếu thấy bệnh tình của mình mỗi ngày mỗi nặng nên dặn dò phó thác mọi việc cho người nhà, như có người nào đến thăm đều xin họ vì mình niệm Phật không nên cùng họ nói chuyện tạp. Công đức niệm Phật là bất khả tư nghì. Kinh nói: “Niệm một câu A Di Đà có thể tiêu trừ các tội nặng trong nhiều kiếp sanh tử. Niệm một câu A Di Đà Phật, trên thấu đến trời Hữu đảnh dưới chí đến ngục Phong luân, chúng sanh nhiều như cõi vi trần thảy đều hưởng thọ sự lợi ích”. Do đó, công đức niệm Phật có thể siêu thoát quỷ thần có thể cứu độ được thân trung ấm. Nếu khi bệnh nặng thấy các oan hồn quỷ dữ đến khủng bố, hoặc biến thành các cảnh ưa thích để dụ dỗ, lúc đó chỉ nên thành khẩn niệm A Di Đà Phật, tà ma quỷ dữ nghe tiếng niệm Phật có thể siêu thoát hoan hỷ mà đi. Nhân đây, nhờ niệm Phật mà oán kết được hóa giải nghiệp chướng sớm tiêu trừ, bản thân rất thuận lợi vãng sanh thế giới Cực lạc.

        Người niệm Phật là hoàn toàn nương nhờ vào nguyện lực đại bi của Phật A Di Đà nhiếp thọ. Vì thế nếu chúng ta một lòng xưng danh hiệu Phật thì trong ao thất bảo ở Tây phương có hiện ra một đóa hoa sen đề tên họ chúng ta, ngày kia khi chúng ta mạng chung sẽ thát sanh trong đóa sen đó. Nếu ở Ta bà này niệm Phật tinh tấn không giải đãi thì hoa sen ở Tây phương phóng ra bốn tia sắc báu ngày càng thêm rực rỡ. Thế giới Cực lạc sự thanh tịnh thù thắng trang nghiêm vi diệu, lầu các đều do bảy báu tạo thành, các báu kỳ dị thanh nhã hương khiết, ao báu nước bát công đức tẩy trừ tâm cấu bẩn, nhạc trời thường trỗi không đánh tự kêu, khí hậu không nóng không lạnh điều hòa thích nghi, cơm ăn áo mặc tùy ý hiện bày, chim báu rực rỡ hót ra diệu âm diễn nói lý khổ, không, vô thường, vô ngã, gió hiu hiu thổi cây báu giăng bày đều diễn nói vô lượng pháp âm vi diệu, sáu căn thanh tịnh không có các khổ, mọi trần lao cấu nhiễm tự nhiên tiêu trừ, trí tuệ thâm tiến đạt sâu thực tướng, thần thông tự tại mạng sống không cùng không còn các khổ chỉ hưởng thọ các điều vui .

        Hạng người sau khi chết chỉ mong bà con vì mình làm Phật sự để siêu thoát, hoặc làm đám lớn cho dễ xem mà không biết khi sống nương vào bản thân tu học để cầu giải thoát chứng Thánh đạo là dễ, còn sau khi chết nương vào bà con làm công đức để cầu siêu thoát là khó. Giả sử bà con, con cái có tâm chí thành cung kính mời các vị cao Tăng đến làm Phật sự, lễ bái sám hối cầu Phật gia bị tất cả công đức đó trong bảy phần người chết chỉ hưởng được một phần, sáu phần công đức còn lại là thuộc về người sống cho đến thuộc về người xuất gia làm Phật sự.

        Vì thế trước khi lâm chung, người bệnh nên vì bản thân mình mà làm tất cả mọi công đức, lúc đó bản thân sanh tâm hoan hỷ, tâm chí thành, tâm sám hối, tâm niệm Phật, bản thân đã biết rõ nương vào sức gia bị sẽ đạt được sự lợi ích rất lớn, rất dễ cứu độ. Tốt nhất là khi thân thể còn khỏe mạnh cố gắng phát tâm tu phước huệ, tụng kinh lễ sám, trai giới niệm Phật. Hiểu rõ được lẽ thật của vũ trụ nhân sanh, phát nguyện lớn lập chí lớn, tu Thánh đạo thành Thánh quả. Nhưng khi lâm chung có người khác trợ niệm lẽ đương nhiên là vô cùng cần thiết.

        Nên mở máy niệm Phật, người bệnh phải giờ giờ phút phút lắng nghe niệm theo hoặc lắng nghe niệm thầm. Nếu tai người bệnh thường huân tập tiếng niệm Phật, khí lực sẽ tỉnh lại có thể tịnh hóa thân tâm tăng trưởng duyên lành, trưởng dưỡng Thánh thai, trong ruộng tám thức thường gieo giống đạo. Lâm chung lại được người khác trợ niệm trợ thành việc lớn vãng sanh, thực là trong khi bệnh không thể thiếu người bạn đồng tu tịnh nghiệp.

          Người bà con cần nên nhận thức

          Nếu người bệnh bệnh tình quá nặng khó lành thuốc thang vô hiệu, gia đình nên mời các vị thiện tri thức đến khai thị cho người bệnh. Thiện tri thức nên đến trước người bệnh mà nói: “Cuộc đời vốn là khổ, không, vô thường, vô ngã, chỉ có thế giới Tây phương Cực lạc là cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh. Con người dù giàu sang phú quý nhưng trong nháy mắt đã thành không. Cõi Tây phương thì sự khoái lạc vô cùng. Bà con nay sẽ vì ông mà đối trước Tam bảo lễ Phật sám hối, tụng kinh niệm Phật, bố thí phóng sanh ngõ hầu tăng trưởng phước đức cho ông”.

          Giả sử người bệnh vui mừng phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh, cảm giác có sự an toàn tâm có chỗ quy hướng thì khuyến khích họ buông xả tất cả chuyên tâm nghe theo tiếng niệm Phật của người trợ niệm, hoặc chuyên tâm nghe theo Phật hiệu. Tâm người bệnh lắng nghe tiếng niệm Phật phải như con thơ nhớ mẹ một lòng quy hướng về Phật A Di Đà, lấy tín sâu nguyện thiết thành khẩn niệm Phật làm tư lương để cầu vãng sanh thế giới Cực lạc. Người bà con lại nên chí thành khẩn thiết vì người bệnh mà niệm Phật trợ niệm, cầu Phật lực gia hộ người bệnh nếu mạng sống chưa hết thì bệnh tình thuyên giảm tiêu trừ tật bệnh thọ mạng thêm dài, còn bằng mạng sống đã hết thì nhờ sức Phật tiếp dẫn sớm được vãng sanh. Nếu người bệnh do nghiệp chướng phát hiện mà sanh tâm chán ghét tiếng niệm Phật, lúc đó người bà con nên tụng vài ba bộ kinh Địa tạng, hoặc niệm danh hiệu Nam mô đại nguyện Địa tạng vương Bồ tát thì người bệnh có thể nghiệp chướng tiêu trừ sanh lòng ưa thích niệm Phật.

          Người bà con không nên ở trước mặt người bệnh có nét ưu sầu thảm não để tránh người bệnh sanh khởi tình cảm luyến ái. Âm điệu niệm Phật không nên xen lẫn bi ai để tránh người bệnh dẫn khởi tâm sầu thương mà mất chánh niệm. Bà con nhất định không được khóc lóc chỉ là tăng thêm tình ái trói buộc phiền não thống khổ, thậm chí làm cho người bệnh bực mình mà sanh tâm sân hận do tâm sân hận mà đọa ác đạo, như thế há chẳng làm sai lạc việc lớn vãng sanh của người bệnh hay sao.

          Người bệnh khi sắp lâm chung bà con nếu có ăn thịt uống rượu không nên để cho người bệnh thấy, nếu không người bệnh dễ mất chánh niệm sẽ đọa vào Tam đồ ác đạo.

          Nếu người bệnh hơi thở đã chấm dứt, do vì thần thức chưa lìa thể xác nên lúc đó cơ thể người chết vẫn còn cảm giác, các vị lương y, người thăm viếng cần có thái độ cẩn thận nên nghe theo lời yêu cầu của gia đình. Trong thời gian mười đến mười hai giờ đồng hồ cần giữ sự yên lặng, đồng thời nên cung cấp khí lạnh hoặc nước đá để khí hậu phòng bệnh được mát mẽ. Lúc này cơ thể người bệnh không được di chuyển, không được đụng chạm các vật trong phong. Đến như tư thế người chết nên để nằm tự nhiên sau đó dùng vải cũ nhúng nước nóng áp vào tay chân người chết thì cơ thể có thể mềm mại như khi sống.

          Phòng bệnh phải tuyệt đối yên lặng không được cười giỡn nói chuyện tạp, nếu trước khi người bệnh chấm dứt hơi thở chưa kịp mời thiện tri thức đến khai thị thì lúc này mời ngay vị thiện tri thức đến bên tai người chết lớn tiếng khai thị (nội dung khai thị như đoạn trước). Tâm người chết còn có sự hiểu biết nhờ khai thị khiến họ có chỗ quy hướng tâm có nơi nương tựa. Bà con và bạn bè nên chia ban luân phiên niệm Phật, trước niệm đủ sáu chữ Hồng danh khoảng mười phút sau đó chuyển sang niệm bốn chữ Hồng danh “A Di Đà Phật” mỗi câu mỗi chữ phải rõ ràng phân minh.

          Tốt nhất là mọi người nên hòa theo tiếng niệm Phật trong máy của pháp sư, trong tâm liền nghĩ tưởng cầu nguyện Phật A Di Đà từ bi phóng quang tiếp dẫn. Tiếng niệm Phật không được gián đoạn khiến cho thần thức người bệnh nghe được câu Phật hiệu liên tục rõ ràng, mới có thể sanh tâm hoan hỷ cảm ứng được nguyện lực của Phật, mà theo Phật vãng sanh thế giới Cực lạc. Có điều khi trợ niệm trong phòng bệnh nên tránh làm phiền nhiễu đến những người bệnh khác.

          Một niệm sau cùng khi lâm chung là thời điểm quyết định cho việc siêu thăng hay đọa lạc. Một niệm sau cùng nếu là niệm lành thì sanh về cảnh giới nhân thiên, một niệm sau cùng nếu là niệm ác thì đọa lạc vào cảnh giới Tam đồ, một niệm sau cùng nếu là niệm Phật thì vãng sanh về cảnh giới Tây phương. Một lòng niệm Phật là tâm lực, nguyện lực tiếp độ chúng sanh là Phật lực, sự cảm ứng là pháp lực. Ba lực bất khả tư nghì này dung hợp vào trong một câu Hồng danh, Phật A Di Đà sẽ tự nhiên trong tâm niệm Phật mà hiện thân tiếp dẫn, cho nên nếu tâm niệm sau cùng khi lâm chung là niệm Phật, người đó liền theo Phật vãng sanh về thế giới Cực lạc. Nhân đây, mục đích của bà con và bạn bè trợ niệm niệm Phật là hy vọng một niệm sau cùng của người bệnh là niệm Phật, theo Phật vãng sanh. Vì thế giờ phút lâm chung chúng ta trợ duyên người bệnh niệm Phật tức có sự diệu dụng thù thắng vô cùng.

          Sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở từ mười đến mười hai giờ đồng hồ, không luận là có vãng sanh hay không người trợ niệm đều nên luân phiên tiếp tục niệm Phật. Nếu thần thức người chết đã vãng sanh thì nhờ công đức niệm Phật có thể tăng cao phẩm vị. Nếu người chết do mất chánh niệm không được vãng sanh thì thần thức người chết ở trong khoảng thời gian bảy ngày, hoặc chậm lắm bảy tuần nhờ công đức trợ niệm mà càng mau siêu thoát. Bởi vì thân trung ấm người chết vốn phiêu phiêu không định khổ sở trăm bề không nơi nương tựa. Trong thời gian sau khi chết đến bảy tuần, thân trung ấm ở trong mỗi niệm mỗi niệm luôn mong ngóng người bà con cốt nhục vì mình mà tạo phước làm công đức để cứu bạt khổ nạn. Vì vậy lúc này người bà con, một mặt nên liên tục thay ban niệm Phật khiến thân trung ấm nghe được tiếng niệm Phật mà được siêu thoát, giống như kẻ đói khát mà được uống nước cam lồ; một mặt cung thỉnh các bậc cao Tăng tụng kinh niệm Phật để cầu nguyện thần thức người chết mau được siêu thoát. Người bà con nên vì vong linh mà rộng tu phước huệ hồi hướng cho họ được tiêu trừ nghiệp chướng sớm được vãng sanh Tịnh độ.

          Nếu người chết khi sanh tiền chưa từng biết Phật pháp, hoặc căn bản vốn không tin Phật pháp nhưng vì thân trung ấm hiện đang rơi vào cảnh khốn khổ nên họ rất mong ngóng được cứu độ. Do đó trong bảy tuần thất tiến vong là thời gian có thể chuyển hóa tâm thức mê lầm của họ. Ở trong thời gian quá độ nghiệp báo một đời chưa rõ ràng này người bà con nên vì người chết mà làm các công đức, vận dụng tâm chí thành tha thiết hồi hướng công đức cho người chết. Mục đích là chuyển hóa định nghiệp đọa lạc Tam đồ ác đạo của họ thành nhân tố vãng sanh Tịnh độ vĩnh viễn hưởng thọ mọi sự an lạc.

          Sau khi mạng chung người bà con nên ở trong thời gian bảy tuần vì người chết mà tu tạo các công đức, bố thí phóng sanh cứu giúp kẻ nghèo đói, cúng dường Tam bảo lễ bái sám hối tụng kinh niệm Phật, cầu Phật gia bị khiến người chết xa lìa nghiệp chướng vãng sanh Tịnh độ. Bà con và con cái nên lấy sự hiếu thuận sâu nặng và công đức chí thành tha thiết để niệm Phật, như thế hai bên kẻ sống người chết mới có sự cảm ứng mới có thể làm cho người chết cảm được công đức cứu độ.

          Người chết thăng trầm trong khổ đau hay hạnh phúc trách nhiệm đó hoàn toàn tùy thuộc vào bà con. Tốt nhất là người bà con nên tránh đi tất cả những việc làm không có ý nghĩa mà chuyển thành những công đức cứu giúp kẻ nghéo khó… Vì thế không nên tẩm liệm những đồ quý giá, không cần phát tang to làm đám lớn, không nên tụ tập ăn uống linh đình, không nên quá chú trọng đến hình thức mà điều quan trọng là làm sao cho người chết đạt được sự lợi ích chân thật.

          Cúng tế vong linh nên lấy việc niệm Phật làm chính bà con và bạn bè đều nên tham gia niệm Phật. Niệm Phật cứu độ người chết công đức rất lớn rất dễ làm rất tinh tế và có sự lợi ích chân thật. Có điều những người tham gia niệm Phật nên tránh ăn mặn uống rượu và cữ ngũ tân.

          Các chùa Thiện đạo, chùa Pháp vân, Hoa nghiêm Liên xã ở thành phố Đài bắc đều có cho thỉnh máy niệm Phật, gia đình nên thỉnh về để mọi người hòa theo tiếng niệm Phật của pháp sư trong máy mà niệm. Muốn cho người chết đạt được sự lợi ích, gia đình ngoài việc tu tạo các công đức còn nên ngày đêm chia ban luân phiên niệm Phật, sao cho tiếng niệm Phật không gián đoạn, mong cầu Phật tiếp dẫn thần thức người chết vãng sanh Cực lạc. Chớ nên đốt giấy tiền vàng mã và chôn cất các vật dụng của người chết. Làm như thế chính là hy vọng người chết đọa lạc vào trong cảnh giới Nga quỷ. Gia đình cần nên nhớ điều này.

            Sau khi thần thức rời khỏi thể xác ngoại trừ những người có nghiệp lực cực ác hay cực thiện, hoặc vãng sanh Thánh đạo đều không phải trải qua giai đoạn thân trung ấm, còn lại hạng người phổ thông bình thường phần nhiều đều phải thọ thân trung ấm. Nay tôi xin nói rõ tình hình tại sao có một số người đã chết rồi mà sống lại, mong các vị để tâm tham khảo.

            Thân trung ấm không nơi nương tựa phiêu phiêu không định, trong giai đoạn sau khi đã chết nhưng chưa có chỗ thọ sanh, hoặc chấp thân này là ta mà lấy đó làm đối tượng để thọ sanh, nếu tử thi chưa hoại có thể hồi dương trở lại. Có một số người hốt nhiên chết bất đắc kỳ tử nếu thọ mạng chưa đáng chết trong thời gian bảy ngày dưới âm ty trả về cũng có thể sống trở lại.

            Nhân đây, sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở cho đến lúc tẩm liệm bà con đối với cơ thể người chết phải giờ giờ phút phút để tâm theo dõi, không luận thần thức đã rời thể xác hay chưa thảy đều nên đối xử như người đó đang còn ở trạng thái hấp hối. Đối với việc tắm rửa thay quần áo người chết cho đến quá trình tẩm liệm người bà con cần phải trực tiếp trông xem. Tóm lại, từ khi người chết chấm dứt hơi thở cho đến lúc tẩm liệm bà con không được rời khỏi tử thi, nên thực tâm hiếu đạo “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm”, đây là đạo lý muôn thuở. Nếu cho rằng nay là xã hội công nghiệp nên bỏ bớt các thủ tục rườm rà gây trở ngại, nhưng đâu có thể cho rằng xã hội công nghiệp là đem thân thể cha mẹ chết chưa lạnh mà tống vào nhà xác hay nơi mai táng rồi không đoái hoài sao?

            Các thành phố lớn trên thế giới đều có thiết lập nhà mai táng, gia đình người chết đối với mọi việc làm của nhà mai táng không nên quá tin tưởng khiến đang tâm làm cho người chết bị ngược đãi. Một số gia đình chỉ biết đem tử thi giao cho nhà mai táng, bản thân không quan tâm không để ý đến việc người chết phải chịu biết bao sự thống khổ. Gia đình và người phúng điếu chỉ quan tâm đám ma cho rình rang, người chết áo mũ cho chỉnh tề để tẩm liệm… mà không chú ý đến các việc trước và sau khi đưa tử thi vào quan tài. Vì để hợp tình hợp lý đúng với sự hiếu đạo, hết thảy quá trình trước khi chết cho đến lúc tẩm liệm gia đình nên trực tiếp giám sát để tránh cho người chết khỏi phải chịu sự thống khổ; “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm” là truyền thống văn hóa đạo đức của người Trung hoa là hiếu đạo luân thường cố hữu của con người.

            Gia đình người chết nếu cho rằng cần nên tuân thủ theo các việc làm của nhà mai táng gia đình khỏi phải trực tiếp giám sát, đây quả thật là đại đại bất hiếu là hoàn toàn không phù hợp với tập tục tốt đẹp xưa nay của người Trung hoa. Nếu như nhà mai táng tự làm mà không có lương tâm nghề nghiệp đây không phải là tổn hại cho người chết lắm sao? Con cháu hiếu thuận há không cần cảnh giác mà yên tâm sao? Huống còn chạy theo một số hủ tục, có một vài nhà mai táng trước khi tẩm liệm họ dùng dao mổ bụng tử thi lấy nguyên phần ruột bên trong rồi độn mạt cưa vải cũ vào. Hoặc dùng dao kéo mổ tử thi để tiện việc tẩy trùng. Cách đây mấy năm có một nhà mai táng ở xứ nọ bị gia đình khởi tố vụ cưỡng dâm xác chết.

            Phàm các việc làm tàn bạo thảm hại này căn bản là do gia đình khi đưa tử thi vào không trực tiếp giám sát mọi việc làm của nhà mai táng. Còn nhà mai táng như thế chẳng khác nào cảnh Địa ngục ở trần gian? Nếu người chết thần thức chưa rời thể xác lúc này người chết vẫn còn có cảm giác như đang hấp hối,

            việc xử lý tử thi một cách tàn bạo của nhà mai táng há không phải là lò mổ hay sao? Tóm lại, không luận thần thức đã rời thể xác hay chưa với người chết chúng ta không được đối xử ngược đãi họ, nên lấy sự hiếu đạo của con người mà đặc biệt thận trọng việc này. Nhà mai táng ở các địa phương, việc làm của họ tuy không tận tình nhưng nếu gia đình trực tiếp giám sát quyết họ sẽ làm đúng quy củ.

            Nhà mai táng là nơi mà tất cả mọi người đều phải trải qua, đây là công việc chung của xã hội; nhằm để tiêu trừ tội ác duy trì và bảo hộ sự hiếu đạo của con người, do đó mọi người không nên có tâm xem thường. Nhân đây, nhà mai táng ở các nơi nên mời các vị hiền nhân văn sĩ đóng góp các ý kiến để cải tiến, ngõ hầu kiến lập nội quy mô phạm cho mình. Tôi xin lược một vài ý kiến đối với các việc làm của nhà mai táng hiện nay mong các vị lưu tâm xét kỹ.

            Tất cả mọi sự sinh hoạt cho đến phòng ốc, khuôn viên… của nhà mai táng chỗ nào còn thiếu thốn, người dân trong địa phương và chính quyền sở tại cần tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ để cảnh quang được sạch đẹp.

            Đối với người chết tuyệt đối không được làm các việc làm trái với sự hiếu đạo của con người.

            Quá trình xử lý người chết của nhà mai táng nên công khai không được bí mật ngược đãi, gia đình người chết cần phải trực tiếp giám sát mọi việc làm của nhà mai táng đối với người chết.

            Nếu gia đình có những ý kiến không đồng tình với việc làm của nhà mai táng trong quá trình xử lý người chết, nhà mai táng nên nghiên cứu cải thiện.

            Nên lấy nguyên tắc phù hợp với sự hiếu đạo của con người để xử lý.

            Trước khi tẩm liệm nên mời gia đình đến giám định mọi việc làm đối với người chết lấy đó làm nguyên tắc. Tại các thành phố lớn nên thiết lập thêm các nhà mai táng tăng thêm các bàn thờ vong để gia đình tiện việc cúng tế. Kêu gọi mọi người cần thực hành hiếu đạo “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm”. Vì sự tiến bộ của xã hội nhà mai táng cần phải có đầy đủ nội quy mô phạm.

              Mùa nóng xác chết rất mau sình thối có thể quyết định sớm hơn. Một số nơi người chết mới chấm dứt hơi thở hai ba ngày liền cử hành hỏa táng, đây là việc làm vô cùng nguy hiểm và tàn nhẫn cần phải thận trọng. Người xưa từng nói: “Từ ba đến bảy ngày có khi thần thức vẫn chưa rời thể xác”, câu nói này là chỉ một số trường hợp đặc biệt nhưng chúng ta cũng nên lấy đó để cảnh giác.

                Mọi ý muốn của mình nên dặn dò trước cho gia đình

                Thời gian chóng qua tuổi thơ nháy mắt đã già yếu nên con người khi tuổi còn trẻ cần đem bản văn này để mọi người trong gia đình cùng tham khảo, mọi ý muốn của mình trước và sau khi lâm chung phải dặn dò rõ ràng với con cháu đó là thượng sách. Đối với một số người trẻ tuổi với việc sống chết họ không chút để tâm, người lớn nếu không đem những chủ trương của mình dặn dò trước với con cháu thì đến lúc lâm chung trong tâm tuy còn minh mẫn nhưng miệng không thể nói được, con cháu nếu xử lý các việc không như ý tâm sẽ khởi phiền não, thần thức sẽ oan uổng chịu phải những sự khổ nạn.

                  Nhân tự lực và duyên tha lực

                  Lâm chung niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ cần có đầy đủ nhân tự lực và duyên tha lực. Tự lực là chánh nhân để vãng sanh Tây phương, tha lực là trợ duyên để vãng sanh Tây phương. Nhân và duyên hòa hợp mới có sự cảm ứng thành tựu việc lớn vãng sanh.

                  Xét về phương diện tự lực, người nào khi bình thường có niềm tin về thế giới Cực lạc tin có Phật A Di Đà, ước nguyện được sanh về thế giới Cực lạc, ước nguyện được thấy Phật A Di Đà. Một lòng chí thành niệm Phật cầu sanh về Tịnh độ cầu thấy Phật A Di Đà. Câu câu chữ chữ từ tâm mà phát từ miệng mà khởi rồi vào trong tai, mỗi niệm mỗi niệm tương tục không có gián đoạn. Âm điệu hòa nhã nhu nhuyến tiếng niệm Phật khẩn thiết chí thành. Niệm niệm có đủ tâm mong cầu câu câu đều nguyện vãng sanh Tịnh độ, cầu Phật từ bi nhiếp thọ mong Phật thương xót duỗi tay cứu độ.

                  Đức Di Đà thương nhớ chúng sanh chẳng khác nào như mẹ nhớ con, chúng sanh nào có tâm tín nguyện trì danh nhớ Phật niệm Phật như con nhớ mẹ, hai đàng có sự thương nhớ sâu nặng không lúc nào ngăn cách tất có sự cảm ứng lẫn nhau người đó quyết sẽ được Phật nhiếp thọ. Không luận cảnh duyên thuận nghịch hay khổ vui ngay cảnh đó đều tuyệt hẳn ngoại duyên tâm không theo cảnh mà chuyển, ở trong mọi lúc mọi nơi đều chuyên cần trì danh niệm Phật thâu nhiếp cả sáu căn tịnh niệm nối nhau. Lâu ngày công phu sẽ thuần thục, đến khi lâm chung mới có thể buông bỏ mọi duyên đề khởi câu Phật hiệu. Lâm chung nếu chánh niệm hiện tiền tức sẽ được Phật tiếp dẫn, như trong khoảng khảy móng tay liền được vãng sanh về thế giới Cực lạc.

                  Người bệnh khi lâm chung người khác vì họ mà niệm Phật trợ niệm, một là có thể trợ giúp người bệnh đề khởi tâm niệm Phật, hai là có thể trợ giúp người bệnh sám hối nghiệp chướng. Nếu nghiệp chướng của họ tiêu trừ thì hoa sen báu và Thánh chúng tất cả mọi thắng cảnh Tịnh độ tự nhiên hiện tiền.

                  Người nào khi lâm chung có được tâm tín sâu nguyện thiết, có được tâm khẩn thiết chí thành niệm Phật như bình thường, người đó một niệm sau cùng là niệm Phật đó là nhân tự lực.

                  Người nào khi bình thường không có tâm tín sâu nguyện thiết chí thành niệm Phật, hoặc tuy có tâm tín sâu nguyện thiết chí thành niệm Phật nhưng công phu chưa được thuần thục, đến lúc lâm chung gặp được thiện tri thức khai thị mà sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm chánh tín phát nguyện cầu sanh, tâm chí thành niệm Phật đó cũng là nhân tự lực.

                  Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng độ khắp các loài chúng sanh, thế giới Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm đó là duyên tha lực.

                  Thiện tri thức khéo khai thị khiến người bệnh sanh tâm chánh tín, buông bỏ mọi duyên trần một lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Gia đình và liên hữu vì người bệnh mà niệm Phật trợ niệm, từ khi chấm dứt hơi thở cho đến mười hay mười hai giờ đồng hồ, lại không chuyển dịch cơ thể không bi ai khóc lóc đó cũng là duyên tha lực.

                  Nếu người nào khi lâm chung nhân tự lực và duyên tha lực cả hai đều đầy đủ thì sẽ có sự cảm ứng lẫn nhau, người đó nhất định sẽ được Phật tiếp dẫn, niệm trước vừa lâm chung niệm sau đã có mặt ở Tịnh độ. Nếu ai có sự ứng hợp nhân và duyên như trên thì vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh.

                  Người nào thường ngày tuy có tâm tín nguyện niệm Phật nhưng đến lúc lâm chung vì bệnh khổ bức bách khiến tâm niệm Phật không đề khởi được, để rồi khởi lòng tham luyến tình ái dục niệm thế gian cho đến vợ con tài sản, ý niệm tham luyến này buông không xuống, trường hợp này là không có nhân tự lực.

                  Người nào nếu lúc lâm chung chẳng có thiện tri thức đến khai thị cũng không có ngưới niệm Phật trợ niệm, lại gặp gia đình không biết mà chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc phá hoại chánh niệm, trong tâm người chết vô cùng phiền muộn nhưng không thể mở miệng nói được, do đó sự thống khổ phiền muộn càng tăng, trường hợp này cũng là không đủ duyên tha lực.

                  Người nào khi lâm chung có đủ nhân tự lực nhưng thiếu duyên tha lực, hoặc khi công phu niệm Phật thuần thục không cần phải người khác niệm Phật trợ niệm nhưng vì gia đình không biết mà chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc khiến phá hoại chánh niệm, trường hợp này là có nhân mà không có duyên cũng không thể vãng sanh.

                  Người nào nếu khi lâm chung chỉ nương vào duyên thiện tri thức khai thị gia đình niệm Phật trợ niệm, không bị chuyển dịch cơ thể không bi ai khóc lóc nhưng bản thân vì bệnh khổ bức bách , hoặc tâm bị trói buộc vào sự tham luyến tình ái dục niệm thế gian vợ con tài sản mà buông không xuống, vì thế tâm tín nguyện niệm Phật không đề khởi được, trường hợp này là có duyên mà không có nhân cũng không thể vãng sanh.

                  Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng như vầng trăng sáng tỏ không chỗ nào mà ánh trăng không chiếu. Chúng sanh phát tâm niệm Phật như ao trong yên tĩnh không động. Nước ao trong lặng thì bóng trăng tỏ hiện, tâm chúng sanh thanh tịnh thì chư Phật hiển bày. Người niệm Phật với công phu thuần thục sẽ cảm thông với Phật, người đó khi lâm chung nương vào nguyện lực của Phật quyết định sẽ được vãng sanh thế giới Cực lạc.

                  Kết luận

                  Chúng ta từ vô thỉ đến nay bởi một niệm bất giác mà chạy theo ngoại cảnh phan với duyên trần. Bởi sức nhân duyên si vọng huân tập khiến trong tâm sanh diệt niệm khởi phát sanh các món điên đảo, cho đến toàn chân thành vọng che đậy chướng ngại bản tánh diệu minh. Do vì tâm sanh nên các pháp sanh do vì pháp sanh nên các tâm sanh, tâm cảnh níu kéo triển chuyển vô cùng. Bởi phiền não tham sân si phát từ thân miệng ý tạo thành hữu lậu khởi hoặc tạo nghiệp, nhân nghiệp mà cảm quả do quả mà nhân khởi, nhân và quả nối nhau không bao giờ có gián đoạn.

                  Vì thế chúng sanh đời đời kiếp kiếp bỏ thân này lại thọ thân khác lưu chuyển không hạn kỳ, mãi mãi trôi lăn nơi biển nghiệp luân chuyển trong Tam giới. Nhân đây, huyễn hiện thăng trầm nơi sáu thú uổng thọ đại khổ của thân tâm, sự thống khổ bức bách vô cùng mà chúng sanh không hay không biết. Nên rõ, nhân vọng chấp mà có sanh vì sanh mà có diệt, sanh diệt gọi là vọng hết sanh diệt gọi là chân.

                  Bởi thấu tỏ được lý duyên sanh như huyễn vọng niệm vốn không mà siêng tu Giới định tuệ để có ngày thể nhập chân như Phật tánh, thấy rõ được bản thể Bất động chặt đứt được sóng lớn sanh tử. Cũng ngay đây dứt hẳn vọng tưởng sanh diệt huyễn hóa ngộ nhập thể tánh chân thật bình đẳng nhất như. Nhưng toàn nương vào sức tự lực để đoạn hoặc chứng chân phản bổn hoàn nguyên, ngõ hầu đạt mục đích xuất ly Tam giới liễu sanh thoát tử, trừ phi người nào đã trải qua nhiều kiếp tiệm tu túc thế đã lắm phen huân tập giống đạo, còn không thì tuy trải qua nhiều kiếp tu hành e rằng vẫn khó có thể chứng ngộ.

                  Duy có pháp môn Tịnh độ nương nhờ vào từ lực của Phật có thể đới nghiệp vãng sanh. Chỉ cần chúng sanh nào có tín sâu nguyện thiết chí thànhh niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là đều có thể vượt tắt Tam giới không còn phải thọ thân đời sau. Cho nên lúc lâm chung niệm Phật cầu sanh thế giới Cực lạc đó là then chốt để siêu phàm nhập Thánh cũng là đường tắt mau chóng thành tựu Chánh giác, bỏ con đường tắt này thì không còn con đường nào an ổn hơn. Bởi tín nguyện trì danh là sanh lộ để liễu sanh thoát tử là phép mầu để thoát khỏi nghiệp chướng buộc ràng. Lại dùng tịnh duyên tăng thượng mà mau chứng Vô sanh, tiếp lấy trí lực nguyện lực nhập vào trần lao mà bạt tế quần mê sanh tử.

                  Xét qua hai môn tự lực và tha lực thì tự lực tu hành phải nghiệp tận tình không mới phá được vô minh chứng pháp tánh, tất nhiên người tu phải trải qua nhiều kiếp mới thành chánh giác, việc khó và dễ thành Phật của hai môn khác xa trời vực. Cổ đức nói: “Chỉ thấy được Di Đà còn lo gì tỏ ngộ”. Vì vậy, chúng ta chỉ cần được vãng sanh Tịnh độ quyết định sẽ thấy Phật nghe pháp mở bày Tri kiến Phật. Nếu chứng được Vô sanh pháp nhẫn được Phật thọ ký thì không khác gì được tăng cao Thánh vị. Từ đây tận cùng vị lai kiếp thường hưởng thọ pháp lạc, thường ra vào trong mười cõi tuyên dương Chánh pháp, gắng sức tu hành nỗ lực hóa độ chúng sanh thực hành đạo lớn Bồ đề. Do đây, trong thì chứng Thánh trí để thoát ly sanh tử ngoài thì diễn bày vạn hạnh để thể nhập vào biển nguyện. Nhập Niết bàn nhưng không rời bỏ đại bi thường hành phương tiện độ người nhưng chưa từng ra ngoài bản thể.

                  Người học Phật nên lập chí nguyện lớn phát tâm Vô thượng Bồ đề mong cầu chứng được quả vị Vô sanh, sau khi được Phật thọ ký hướng thẳng đạo lớn Bồ đề, dụng sức trí tuệ bi nguyện đi vào khắp biển khổ trần lao phiền não, khởi Vô duyên đại từ vận dụng Đồng thể đại bi bình đẳng làm lợi ích khắp tất cả chúng sanh, lấy Tứ nhiếp tịnh hóa chúng sanh sớm thoát khỏi Ta bà ngũ trược ác thế mau lên cữu phẩm nơi Cực lạc liên bang. Như thế, rộng độ khắp pháp giới chúng sanh trải qua cực vi trần số kiếp, viên tu vạn hạnh, viên mãn vạn đức bi trí song vận trí tuệ cụ túc mà chứng Vô thượng chánh giác, cũng ngay đó gọi là viên mãn Vô thượng đại Bồ đề. Đó là thành tựu mục tiêu cứu cánh “Thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh”. Đó là thay thế đức Như lai đảm nhận trách nhiệm độ thoát chúng sanh lợi khắp các loài hàm thức. Đó là bậc đại trượng phu thực hành Bồ tát đạo. Đó là chân tinh thần phát huy rực rỡ Đại thừa Phật giáo.

                  Biên soạn bản văn này chẳng có tánh chất thời gian chẳng có tánh chất phương sở, chỉ vì tất cả con người ở hiện tại và tận cùng vị lai mà đề xướng các kiến thức cơ bản trước và sau khi lâm chung. Mong các vị hiền nhân văn sĩ phổ biến rộng rãi bản văn: “Sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời” này. Mong cầu ở hiện tại và tận cùng vị lai có bao nhiêu người khi lâm chung đều được tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa phiền não, trở lại nguồn tịnh tâm đồng lên bờ giác, đều được vãng sanh thế giới Tây phương Cực lạc của đức Phật A Di Đà.

                  Hoan nghênh các vị hiền sĩ đã đề xướng ấn tống tặng bản văn này cho người đọc ngõ hầu rộng kết tịnh duyên, triển chuyển lưu truyền khiến mọi người trong hiện tại và vị lai được hưởng sự lợi ích, công đức này vô lượng phước đức này vô biên, tổ tiên sớm được siêu thăng con cháu thảy đều được nhân từ hiếu đạo.

                  Sự Kiện Quan Trọng Nhất Trong Cuộc Đời

                  Pháp sư Tịnh Không

                  Do vậy, họ có nhiều nghi thức tế lễ, an táng cho người mới ra đi vào cõi vĩnh hằng. Một trong những nghi lễ quan trọng hàng đầu đó là tính xem tuổi, tháng, ngày, giờ của người mất có hợp với quy luật cuộc đời của “chính họ” hay không. Dựa vào tuổi của người mất và ngày, tháng, giờ mất của họ để tính xem: người đó có được “nhập mộ” hay gặp phải “thiên di”, “trùng tang”.

                  – “Nhập mộ”: là người mất “ra đi” và được “nằm xuống” vĩnh viễn , không còn vương vấn trần ai. Thể hiện sự an lành, yên nghỉ. Chỉ cần một “nhập mộ” của tuổi hoặc tháng, ngày giờ là được coi là tốt.

                  – “Thiên di”: là dấu hiệu ra đi do “trời định”, người mất lúc đó được trời đưa đi. Sự ra đi này nằm ngoài mong muốn của người mất, nhưng cũng là hợp với lẽ trời.

                  – “Trùng tang”: là dấu hiệu ra đi không hợp số phận, không dứt khoát, có nhiều ảnh hưởng tới người ở lại. Theo quan niệm xưa, nếu gặp phải trùng tang mà không có “nhập mộ” nào thì cần phải mời người có kinh nghiệm làm lễ “trấn trùng tang”.

                  Cách tính trùng tang phổ biến như sau:

                  – Dùng 12 cung địa chi trên bàn tay để tính. Nam khởi từ Dần tính theo chiều thuận, Nữ khởi từ Thân tính theo chiều nghịch.

                  – Bắt đầu là 10 tuổi, cung tiếp theo là 20 tuổi, … tính đến tuổi chẵn của tuổi người mất. Sau đó cung tiếp theo là tuổi lẻ tính đến tuổi của người mất, gặp ở cung nào thì tính là cung tuổi.

                  – Từ cung tuổi, tính cung tiếp theo là tháng 1, tính lần lượt đến tháng mất, gặp cung nào thì cung đó là cung tháng.

                  – Từ cung tháng, tính cung tiếp theo là ngày 1, tính lần lượt đến ngày mất, gặp cung nào thì tính cung đó là cung ngày.

                  – Từ cung ngày, tính cung tiếp theo là giờ tý, tính lần lượt đến giờ mất, gặp cung nào thì tính cung đó là cung giờ.

                  Nếu các cung tuổi, tháng, ngày, giờ gặp các cung:

                  – Dần – Thân – Tị – Hợi thì là gặp cung Trùng Tang

                  – Tý – Ngọ – Mão – Dậu thì là gặp cung Thiên Di

                  – Thìn – Tuất – Sửu – Mùi thì là gặp cung Nhập Mộ.

                  Chỉ cần gặp được một cung nhập mộ là coi như yên lành, không cần phải làm lẽ trấn trùng tang.

                  Ví dụ: Tính cho cụ ông mất giờ Tý, ngày 3, tháng 3 thọ 83 tuổi.

                  Cụ ông Khởi từ cung Dần tính chiều thuận: 10 tuổi ở Dần, 20 tuổi ở Mão, 30 tuổi ở Thìn… 80 tuổi ở Dậu, đến tuổi lẻ 81 ở Tuất, 82 ở Hợi, 83 ở Tí. Vậy cung tuổi là cung Tý là cung Thiên Di.

                  Tính tiếp tháng 1 là Sửu, tháng 2 ở Dần, tháng 3 ở Mão, vậy cung tháng là Mão là cung Thiên Di.

                  Tính ngày mồng 1 là Thìn, ngày mồng 2 là Tị, mồng 3 là Ngọ, vậy cung ngày là Ngọ gặp Thiên Di.

                  Tính tiếp cho giờ, giờ tý tại Mùi, vậy cung giờ là cung Mùi được cung nhập mộ.

                  Như vậy cụ ông có 3 cung thiên di, 1 cung nhập mộ. Vậy là hợp với lẽ trời và đất.

                  Đây là bãng tính trùng tang

                  Tuổi người chết Năm chết Ngày chết Giờ chết Liệm, chôn, cải tang kỵ ngày Tháng chết

                  Trùng Tang còn là ngày phục nhật: tháng 1 ngày Giáp tháng 2 ngày Ất tháng 3 ngày Mậu tháng 4 ngày Bính tháng 5 ngày Đinh thnấg ngày Kỷ tháng 7 ngày Canh tháng 8 ngày Tân tháng 9 ngày Mậu tháng 10 ngày Nhâm tháng 11 ngày Quý tháng 12 ngày Kỷ

                  Tính Trùng tang như chúng tôi vừa trình bày là cách tính được nhà Phật hay dùng, Chùa Liên Phái (Quận Hai Bà trưng Hà Nội) hoặc chùa Liên phái ở Bắc Ninh là hai chùa chuyên xử lý vấn đề này. Trong đó chùa ở Bắc Ninh thì thấy bảo là chứa hàng trăm ngàn vong bị giữ lại đó do bị chết Trùng.

                  Thực tế có trùng tang hay không? Bản chất nó là gì? Tác hại đến đâu … toàn chỉ được nghe kể lại thôi, chưa được trực tiếp chứng kiến bao giờ, và có lẽ hơi khó chứng kiến, vì chẳng nhà nào dám làm ẩu khi thầy phán bị trùng tang.

                  Đám tang được coi là đẹp khi tất cả được chữ Nhập Mộ, ý nói người chết đã mồ yên mả đẹp, linh hồn được siêu thoát … nên không có gì phiền não ngưòi còn sống.

                  Nhập mộ là thế nào: Là cả xác cả hồn đều chui tọt vào Mộ. Đừng có Xác thì trong Mộ mà Hồn lại lang bang ở ngoài không nơi không chốn nương nhờ.

                  Đã nói đến Nhập Mộ, tức là động chạm đến vòng Tràng Sinh. Vì Tràng Sinh thì gồm 12 giai đoạn là Tràng Sinh (cái mới mới sinh ra trên cơ sở cái cũ vừa chết đi) Mộc Dục (được tắm rửa, còn yếu ớt) Quan đới (được đi học, hoặc khi chết thì bắt đầu tẩm liệm) Lâm Quan (Vào việc/ Vào áo quan) Đế vượng (Lúc cực thịnh trong đời/Khi kèn trống nổi lên) Suy (Khi bước qua bên kia của danh vọng, của tuổi trẻ/ Khi người nhà thuơng nhớ cố nhân) Bệnh (Hết tuổi làm việc về hưu thì ngã bệnh) Tử (Chết, Hồn lìa khỏi Xác) Mộ (Cả hồn cả xác đều nhập vào trong lòng đất) Tuyệt (Mọi thứ tan tành, Xương ra xương, thịt ra thịt) Thai (Hồn đi đầu thai nơi khác) Dưỡng (9 tháng 10 ngày dưỡng dục thai nhi) … Trong 12 thời nói trên, khi ứng dụng cho tang ma, người ta quan trọng nhất các kỳ: Mộc dục = Tắm rửa cho người chết trước khi tẩm liệm; Quan đới/Lâm Quan: Tẩm liệm, bỏ vào quan tài mà phát tang và cuối cùng là Mộ = đưa người chết về nhà mới của họ.

                  Dựa vào việc xác định ngày, giờ nào hợp với Kỳ nào của vòng tràng sinh, có thể định giờ tẩm liệm, phát tang, chôn cất cho phù hợp.

                  Vài dòng liên tưởng, mong các bạn tiếp tục bổ sung.

                  Trong phép tính trùng tang ta phải biết tiên lượng: trùng ngày nặng nhất – Trùng thất xa; trùng tháng nặng nhì – Trùng tam xa; trùng giờ nặng 3 – trùng nhị xa; trùng năm nhẹ nhất – trùng nhất xa.

                  Ngoài ra cứ chết vào năm tháng ngày giờ Dần, thân, tỵ, hợi thì cũng bị trùng tang theo phương đồ trên. Năm tính năm, ngày tính ngày… Còn phải xem người chết chôn vào ngày nào nữa để tính, nếu chết chôn:

                  – Tháng giêng: ngày 7-19

                  – Tháng 2, tháng ba: ngày 6-18-30.

                  – Tháng tư :ngày 4-16-28.

                  – Tháng năm, tháng sáu: ngày 3-15-27.

                  – Tháng bảy: ngày 1-12-25.

                  – Tháng tám, tháng chín: ngày 12-24.

                  – Tháng mười: ngày 10-22.

                  – Tháng 11- tháng chạp: ngày 9 -21.

                  Nếu người chết mà chôn vào các ngày trên thì trong vòng ba tháng hoặc là ba năm sẽ có cha mẹ, con cháu, anh em ruột chết nữa. Bài này khá linh nghiệm xin nhớ kỹ. Khi thấy bị phạm những điều trên rồi, gia chủ nên tìm thầy giải hạn ngay, nên tìm các thầy tu, cao tăng, ngoài đời thường rất hiếm. Chớ coi thường.

                  LIÊN QUAN GIỮA CÁC TUỔI CẦN TRÁNH KHI PHẠM TRÙNG TANG.

                  Trùng tang Nhất xa – Ba người chết theo.

                  Trùng tang Nhị xa – Năm người chết theo

                  Trùng tang Tam xa – Bẩy người chết theo.

                  Sinh năm Kỷ Dậu nên bị Phục tang tại Địa hộ Tỵ – Tam xa.

                  Phục – Sự quay trở lại của Vong hồn.

                  Trùng – Sự nhập của Vong hồn vào người sống, bắt đi theo.

                  Trùng tang ngày là nặng nhất.

                  Trùng tang Tháng là nặng nhì.

                  Trùng tang Giờ là nặng thứ ba.

                  Trùng tang Năm là nhẹ nhất.

                  KIÊNG KỴ: Người nhà kiêng người Tam hợp tuổi, kiêng tuổi xung, kiêng tuổi Hình với Vong mệnh.

                  Kỵ Long – Hổ – Kê – Xà tứ sinh Nhân ngoại (Người khách các tuổi Thìn – Dần – Dậu – Tỵ không được có mặt khi khâm liệm).

                  Kiêng người có cung phi Bát trạch xung khắc với Vong mệnh.

                  Kiêng khóc thành tiếng khi đang liệm.

                  Cách Tính Trùng Tang

                  Thư Mục Thực Hành Tâm Linh

                  Dân gian Á Đông xưa rất quan tâm đến nghi thức an táng cho người vừa mới mất. Người xưa cho rằng người ruột thịt vừa mất có ảnh hưởng tốt, xấu tới những người thân cùng huyết thống đang sống. Do vậy, họ có nhiều nghi thức tế lễ, an táng cho người mới ra đi vào cõi vĩnh hằng. Một trong những nghi lễ quan trọng hàng đầu đó là tính xem tuổi, tháng, ngày, giờ của người mất có hợp với quy luật cuộc đời của “chính họ” hay không. Dựa vào tuổi của người mất và ngày, tháng, giờ mất của họ để tính xem: người đó có được “nhập mộ” hay gặp phải “Thiên di”, “Trùng Tang”.

                  – “Nhập mộ”: là người mất “ra đi” và được “nằm xuống” vĩnh viễn , không còn vương vấn trần ai. Thể hiện sự an lành, yên nghỉ. Chỉ cần một “nhập mộ” của tuổi hoặc tháng, ngày giờ là được coi là tốt.

                  – “Thiên di”: là dấu hiệu ra đi do “trời định”, người mất lúc đó được trời đưa đi. Sự ra đi này nằm ngoài mong muốn của người mất, nhưng cũng là hợp với lẽ trời.

                  – “Trùng Tang”: là dấu hiệu ra đi không hợp số phận, không dứt khoát, có nhiều ảnh hưởng tới người ở lại. Theo quan niệm xưa, nếu gặp phải Trùng Tang mà không có “nhập mộ” nào thì cần phải mời người có kinh nghiệm làm lễ “trấn trùng tang”.

                  Cách Tính Trùng Tang Theo Lòng Bàn Tay Như Sau :

                  Trước tiên dù là Nam hay Nữ mất cũng cần phải biết rõ chết vào Ngày, Tháng, Năm nào và  lúc chết bao nhiêu tuổi ( tính theo âm lịch ). Sau đó nếu là Nam thì tính bắt đầu từ Dần ( Theo chiều kim đồng hồ ) Nữ thì bắt đầu tính từ Thân ( ngược chiều kim đồng hồ ).Tính theo thứ tự Tuổi Mất, Tháng Mất, Ngày Mất, Giờ Mất.

                  – Cứ 10 năm thì được tính là 1 cung, các tuổi lẻ thì mỗi tuổi là 1 cung. Cứ thế xoay theo chiều cho đến số tuổi qua đời. VD : Nam mất năm 32 tuổi

                  Năm : Đàn ông bấm từ cung Dần là 10, Mão 20, Thìn 30, Tị 31, Ngọ 32. dừng tại đó xem cung Ngọ thuộc cung nào để biết là Năm ra sao

                  -Tiếp đó bấm đến Tháng mất : VD mất tháng 2 thì bấm tiếp là Mùi 1, Thân 2 dừng tại đó xem cung Thân thuộc cung nào để biết Tháng ra sao.

                  – Tiếp đó bấm đến Ngày mất : VD mất Ngày 6 thì bấm tiếp là Dậu 1, Tuất 2, Hợi 3, Tý 4, Sửu 5, Dần 6 dừng tại đó xem cung Dần thuộc cung nào để biết Ngày đó ra sao.

                  – Tiếp đó bấm đến Giờ mất : VD mất 3h sáng ( Giờ Dần ) thì bấm tiếp là Mão ( tý ) Thìn ( sửu ) Tị ( Dần ) dừng tại đó xem Tị rơi vào cung nào để biết Giờ đó ra sao.

                  Nếu rơi vào các cung

                  Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là Nhập Mộ.( Rất tốt )

                  Tý, Ngọ, Mão, Dậu là Thiên Di. ( Không tốt )

                  Dần, Thân, Tị, Hợi là Trùng Tang  ( Rất xấu )

                  Ví dụ Nam 74 tuổi, chết tháng 4, ngày 3, giờ Mão thì ta bấm như sau:

                  Bấm Năm : bắt đầu từ cung Dần là 10, Mão 20, Thìn 30, Tị 40, Ngọ 50, Mùi 60, Thân 70, Dậu 71, Tuất 72, Hợi 73, Tý 74. vậy là chết 74 tuổi vào Cung Tý. so với bảng tính ở trên Cung Tý là Thiên Di vậy là Năm Thiên Di.

                  Bấm Tháng : bắt đầu từ tháng 1 vào cung Sửu, tháng 2 dần, tháng 3 Mão, tháng 4 Thìn.vậy là chết tháng 4 vào cung Thìn. So với bảng tính ở trên là Nhập Mộ vậy là Tháng Nhập Mộ.

                  Bấm Ngày : Bắt đầu từ mồng 1 vào cung Tị, mồng 2 Ngọ, mồng 3 Mùi, vậy là chết ngày mồng 3 vào cung Mùi, so với bảng tính ở trên là Nhập Mộ vậy là Ngày Nhập Mộ.

                  Bấm Giờ : Bắt đầu từ giờ Tý vào cung Thân, giờ sửu (Dậu ), Giờ Dần ( Tuất ), giờ Mão ( Hợi ) vậy là chết vào giờ Mão rơi vào cung Hợi, so với bảng tính ở trên là Trùng Tang vậy là Giờ Trùng Tang.

                  Tổng Kết là : Năm: Thiên Di.

                  Tháng : Nhập Mộ.

                  Ngày : Trùng Tang.

                  Giờ : Trùng Tang.

                  Đối với Nữ thì tính ngược lại theo chiều Kim đồng hồ bắt đầu từ Thân.

                  Cách Tính trùng tang theo bảng vẽ sau tương tự như tính bằng tay vậy.

                  I.-COI GIỜ LIỆM

                  A. GIỜ TRÙNG TANG LIÊN TÁNG (xấu, nên tránh).

                  – Tuổi: Thân, Tý, Thìn chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Tỵ là phạm trùng tang liên táng.

                  – Tuổi: Dần, Ngọ, Tuất chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Hợi là phạm trùng tang liên táng.

                  – Tuổi: Tỵ, Dậu, Sữu chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Dần là phạm trùng tang liên táng.

                  – Tuổi: Hợi, Mẹo, Mùi chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Thân là phạm trùng tang liên táng.

                  – Liệm, chôn cũng tránh mấy giờ đó mà cải táng (đào lên đem chôn chỗ khác) cũng phải tránh những ngày, giờ trùng tang liên táng.

                  B.  LIỆM CHÔN KỴ NGƯỜI CÒN SỐNG

                  Thí dụ: Trưởng nam tuổi Dần, dâu lớn tuổi Mẹo, cháu lớn tuổi Thìn thì kỵ ba giờ: Dần, Mẹo, Thìn, nên dùng: Ngọ, Mùi, Dậu thì tốt.

                  Nếu người chết không con trai, dâu, cháu nội thì tránh tuổi anh lớn và tuổi cha mẹ của người chết.

                  Cẩn thận, nên xem ngày đó kỵ tuổi nào, nhắc thân nhân có tuổi đó tránh mặt lúc tẩn.

                  Lúc nào cũng phải tránh giờ: Dần, Thân, Tỵ, Hợi.

                  Nên lựa giờ Nguyệt tiên mà những giờ tốt trong bài đó.

                  C.  TÙY NGÀY LỰA GIỜ TỐT ĐỂ TẨN LIỆM

                  Ngày Tý nên dùng giờ Giáp, Canh.

                  Ngày Sửu nên dùng giờ Ât, Tân.

                  Ngày Dần nên dùng giờ Đinh, Quý.

                  Ngày Mẹo nên dùng giờ Bính, Nhâm.

                  Ngày Thìn nên dùng giờ Giáp, Đinh.

                  Ngày Tỵ nên dùng giờ Ât, Canh.

                  Ngày Ngọ nên dùng giờ Đinh, Quý.

                  Ngày Mùi nên dùng giờ Ât, Tân.

                  Ngày Thân nên dùng giờ Giáp, Quý.

                  Ngày Dậu nên dùng giờ Đinh, Nhâm.

                  Ngày Tuất nên dùng giờ Canh, Nhâm.

                  Ngày Hợi nên dùng giờ Ât, Tân.

                  1.      Giáp, Kỷ: khởi Giáp Tý (1)

                  2.      Ất, Canh: Bính tác sơ (2)

                  3.      Bính, Tân: Mậu Tý khởi

                  4.      Đinh, Nhâm: Canh Tý cư

                  5.      Mậu, Quý: Hà phương mích? (3)

                  Nhâm Tý khởi vi đầu.

                  CHÚ THÍCH:

                  (1)   Ngày Giáp, ngày Kỷ thì giờ Tý ngày đó tính là giờ Giáp Tý, kế là Ất Sửu, Bính Dần …

                  (2)   Ngày Ất, ngày Canh thì giờ Tý của những ngày đó là Bính Tý … cho đến …

                  (3)   Ngày Mậu, ngày Quý thì giờ Tý của các ngày đó là giờ Nhâm Tý, rồi đến Quý Sửu vân vân … tính tới …

                  D. TÍNH NGÀY NGUYỆT TIÊN

                  (1) Tý, Ngọ gia Tý, Mẹo, Dậu gia Ngọ,

                  Thìn, Tuất gia Thân, Sửu, Mùi gia Dần,

                  Dần, Thân gia Thìn, Tỵ, Hợi gia Tuất.

                  (thuộc lòng)

                  (2) NGUYỆT TIÊN, THIÊN ĐỨC, Thiên sát, THIÊN KHAI, Tòa thần, Thiên nhạc, NHỰT TIÊN, Địa sát, THIÊN QUÝ, MINH CHUYỂN, Thiên hình, Thiên tụng. (thuộc lòng)

                  Giờ tốt thì chữ IN HOA.

                  Thí dụ: Ngày Tý hoặc ngày Ngọ mà ta muốn dùng giờ Mẹo, coi giờ Nguyệt tiên tốt xấu. Ta thấy ở (1) có câu “Tý, Ngọ gia Tý”, vậy ngày Tý hoặc ngày Ngọ khởi hô Nguyệt tiên tại cung Tý trên bàn tay, thuận hành đến cung Mẹo (cũng là giờ Mẹo) nhằm THIÊN KHAI, giờ Mẹo gặp Thiên khai là giờ tốt.

                  Hay: ngày Thân giờ Tuất, ta thấy ở (1) có câu :”Dần, Thân gia Thìn”, vậy ngày Thân khởi tại cung Thìn, ta theo (2) hô Nguyệt tiên tại cung Thìn, thuận hành đến cung Tuất nhằm NHỰT TIÊN, giờ Tuất gặp Nhựt tiên là giờ tốt.

                  II. LỰA NGÀY GIỜ AN TÁNG (CHÔN)

                  Tùy theo tháng mà chọn ngày tốt, lại phải tránh thêm những ngày: Trùng tang, Trùng phục, Tam tang, Thọ tử, Sát chủ, Sát chủ âm, Nguyệt phá, Thiên tặc, Thiên can, Hà khôi, Âm thố, Dương thố, Thố cấm.

                  Tháng giêng:                 5 Dậu (5 Can=Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý : Dậu). Ất, Tân, Đinh, Quý: Mẹo.  Bính,Nhâm:    Ngọ.

                  Tháng hai:                     Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần. Đinh, Kỷ, Quý: Mùi. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân.

                  Tháng ba:                     Bính, Canh, Nhâm: Tý. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Ngọ. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Ất, Đinh, Quý, Tân: Dậu.

                  Tháng tư:                      5 Sửu, 5 Dậu. Giáp, Mậu, Canh: Ngọ.

                  Tháng năm:                   5 Dần. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân.

                  Tháng sáu:                    Giáp, Canh, Nhâm:Ngọ. Giáp, Bính, Canh: Thân. Kỷ, Đinh, Tân, Quý:Dậu. Ất, Tân, Quý: Mẹo.

                  Tháng bảy:                    Bính, Nhâm: Tý. Nhâm Thìn. Bính, Mậu, Nhâm: Thân. 5 Dậu.

                  Tháng tám:                    Đinh, Quý: Sửu. 5 Dần. Nhâm Thìn. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Đinh, Kỷ, Quý:Dậu.

                  Tháng chín:                   Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần, Ngọ. Kỷ, Đinh, Tân, Quý: Dậu.

                  Tháng mười:                 Giáp Thìn, Canh Tý. Giáp, Mậu, Canh: Ngọ. Kỷ, Tân, Quý: Mùi. 5 Mẹo.

                  Tháng mười một:           5 Dậu, 5 Thân. Giáp, Mậu, Canh, Nhâm: Thìn. Nhâm Tý.

                  Tháng mười hai:            Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần, Thân, Ngọ. Ất, Đinh, Canh, Quý: Dậu.

                  – Ngày chôn tốt (an táng kiết nhựt):

                  Nhâm Thân, Quý Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Thân, Đinh Dậu, Nhâm Dần, Bính Ngọ, Kỷ Dậu, Canh Thân, Tân Dậu (là rất tốt).

                  Canh Ngọ, Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Dần (là tốt vừa).

                  Cẩn thận, nên xem ngày đó kỵ tuổi nào, nhắc thân nhân có tuổi đó tránh mặt lúc hạ huyệt.

                  – Nên chọn những ngày, giờ tốt trong bài Huỳnh đạo mà an táng, nên nhớ tránh giờ Tỵ, Hợi và tuổi của tang chủ như đã nói ở phần “COI GIỜ LIỆM”, còn những tuổi bị THÁI TUẾ ÁP TẾ CHỦ thì khi hạ huyệt mới dặn mấy người tuổi đó tránh đi chỗ khác (ở trong lịch Tàu mỗi năm có ghi sẵn 6 tuổi Thái tuế áp tế chủ, tức là những tuổi phạm Thái Tuế, xung Thái Tuế , bàng Thái Tuế v.v…).

                  *CÁCH CHIẾM GIỜ HOÀNG  ĐẠO ĐẠI KIẾT

                  Ta nên thuộc hai câu sau đây:

                  Bao giờ gặp CHUỘT đuổi TRÂU

                  THỔ NGŨ KÊ HẦU  trăm việc đều nên .

                  Hai câu trên là nói 6 giờ đại kiết: CHUỘT là giờ Tý, TRÂU là giờ Sửu, THỐ là giờ Mẹo, NGŨ là giờ Ngọ, KÊ là giờ Dậu, HẦU là giờ Thân. Trong 12 giờ coi gặp 6 giờ này là giờ ĐẠI KIẾT.

                  CÁCH COI: Ngày đầu khởi giờ đó, ngày cách tiết nghịch hành, giờ liên tiết thuận hành. Khởi ngày Tý tại cung Tý trên bàn tay.

                  Thí dụ: Ngày Mẹo, giờ nào đại kiết?

                  Khởi ngay ngày Tý tại cung Tý nghịch hành lùi lại bỏ một cung: Sửu tại cung Tuất, Dần tại cung Thân, ngày Mẹo tại cung Ngọ. Ngày Mẹo tại Ngọ, ta khởi giờ Tý tại Ngọ thuận hành liên tiết, giờ Sửu tại Mùi, giờ Dần tại Thân, giờ Mẹo tại Dậu, giờ Thìn tại Tuất, giờ Tỵ tại Hợi, giờ Ngọ tại Tý, giờ Mùi tại Sửu, giờ Thân tại Dần, giờ Dậu tại Mẹo, giờ Tuất tại Thìn, giờ Hợi tại Tỵ. Ta nhận thấy 6 giờ: Ngọ, Mùi, Dậu, Tý, Dần, Mẹo đứng trên 6 cung: Tý, Sửu, Mẹo, Ngọ, Thân, Dậu là giờ ĐẠI KIẾT.

                  III. COI NGÀY XẢ TANG

                  Nên chọn những ngày:

                  Nhâm, Giáp, Bính, Canh, Mậu=Thân

                  Bính, Canh, Nhâm=Tý

                  Tân, Ất=Mẹo

                  Bính, Mậu=Ngọ.

                  Kỷ Dậu, Tân Dậu, Kỷ Mùi, Ất Mùi, Mậu Dần, Quý Sửu và những ngày trực Trừ.

                  Nên tránh những ngày: Thọ tử, Sát chủ, Trùng tang, trực Kiến, trực Phá.

                  Chú ý: tháng hai trực Trừ gặp Thọ tứ, tháng ba trực Trừ gặp Trùng tang, tháng năm, tháng tám trực Trừ gặp Tam tang, trong 4 tháng vừa kể trên gặp trực Trừ không dùng được.

                  *CHÚ Ý LỜI DẶN:

                  1.         Khi dở lịch ra chọn ngày tốt, được Tam hạp, Lục hạp và tương sanh (hay tỳ hòa), ta lại phải dò trong “Đổng Công Tuyển Trạch Nhựt Yếu Lãm” (chữ LÃM có người đọc lầm ra chữ GIÁC) coi ngày ấy có tốt không?

                  Nếu như trong lịch và trong Đổng Công đều tốt cả thì dùng được đại kiết, còn trong lịch bình thường mà trong Đổng Công nói tốt thì dùng cũng được tốt, còn trong lịch nói tốt mà trong Đổng Công chê xấu thì chẳng nên dùng.

                  2. Tuy hai chỗ bảo tốt, nhưng phải dò lại trong bảng Tuyển nhựt coi có phạm Sát chủ, Thọ tử hay những ngày cấm kỵ nào khác không, nếu có thì cũng phải chừa (coi bảng Tuyển nhựt trích yếu ngoạt trung tuyển nhựt )

                  BẢNG TRA GIỜ ÂM LỊCH

                  (Theo múi giờ 7)

                  Tháng 11:đầu giờ Tý từ   23 giờ 10 phút   đến   1 giờ 9 phút

                  đầu giờ Ngọ từ   11 giờ 10 phút   đến   13 giờ 9 phút

                  Tháng 12,10:đầu giờ Tý từ   23 giờ 20 phút   đến   1 giờ 19 phút

                  đầu giờ Ngọ từ   11 giờ 20 phút   đến   13 giờ 19 phút

                  Tháng 1, 9:đầu giờ Tý từ   23 giờ 30 phút   đến   1 giờ 29 phút

                  đầu giờ Ngọ từ   11 giờ 30 phút   đến   13 giờ 29 phút

                  Tháng 2, 8:đầu giờ Tý từ   23 giờ 40 phút   đến   1 giờ 39 phút

                  đầu giờ Ngọ từ   11 giờ 40 phút   đến   13 giờ 39 phút

                  Tháng 3, 7:đầu giờ Tý từ   23 giờ 50 phút   đến   1 giờ 49 phút

                  đầu giờ Ngọ từ   11 giờ 50 phút   đến   13 giờ 49 phút

                  Tháng 4, 6:đầu giờ Tý từ   0 giờ 00 phút   đến   1 giờ 59 phút

                  đầu giờ Ngọ từ   12 giờ 00 phút   đến   13 giờ 59 phút

                  Tháng 5:   đầu giờ Tý từ   0 giờ 10 phút   đến   2 giờ 09 phút

                  đầu giờ Ngọ từ   12 giờ 10 phút   đến   14 giờ 09 phút

                  Kính mong các bạn đọc thật kỹ, xét cho tường tận sự việc trong gia đình mình. Từ đó đưa ra kiến giải cho sự việc, không nên lợi dụng người thiếu hiểu biết để trục lợi.  Những gì tôi viết lên đây là kiến thức khoa học nghiên cứu cả đời của tôi, chỉ mong giúp đỡ người đời tai qua nạn khỏi. Hướng về những điều tốt đẹp của cuộc sống.

                  NHỮNG VIỆC CẦN LÀM CHO NGƯỜI MỚI MẤT

                  ĐẠI SƯ ẤN QUANG KHAI THỊ BA ĐIỀU THIẾT YẾU LÚC LÂM CHUNG

                  Điều thứ nhất: Phải khéo khai thị an ủi, khiến cho bệnh nhân sắp mất sanh lòng chánh tín. Tha thiết khuyên bệnh nhân, buông bỏ tất cả, nhất tâm niệm Phật, nếu có dặn dò việc gì, bảo họ mau dặn dò, dặn dò xong, bảo họ không nên lo nghĩ chuyện khác, chỉ nghĩ đến ta sắp theo Phật sanh về cõi Cực Lạc, nhất tâm chí thành Niệm Phật, Ngài đích thân đến tiếp dẫn, liền được vãng sanh.

                  Điều thứ hai: Mọi người luân phiên niệm Phật, để hộ trì tịnh niệm cho bệnh nhân. Tâm lực của bệnh nhân yếu ớt, không thể liên tục niệm lâu dài, ngay trong lúc này phải nhờ người khác hộ niệm, mới được đắc lực. Nên biết rằng: Những người chịu giúp bệnh nhân tịnh niệm vãng sanh, cũng được quả báo người khác hộ niệm cho mình, đừng nói là chỉ vì cha mẹ mới hộ niệm như vậy, cho dù là người không quen biết cũng phải giúp họ hộ niệm, cũng là bồi dưỡng phước điền của mình, giúp cho một người thành tựu vãng sanh Tịnh Độ, tức là giúp cho một người thành tựu làm Phật, hộ niệm nên chia thành từng nhóm luân phiên niệm Phật, pháp khí chỉ nên dùng một cái Khánh, niệm Phật không mau nên chậm, từng chữ rõ ràng.

                  Điều thứ ba: Tuyệt đối không nên dời động hay khóc lóc, e sợ làm hỏng việc. Bệnh nhân lúc sắp phân chia: Phàm, Thánh, Người, Quỷ, lúc đó chỉ niệm Phật cho thần thức của họ, không nên lau mình, thay quần áo, dời động, khóc lóc, để cho họ tự nhiên ngồi nằm, vì vậy có thuyết rằng: Đỉnh nóng sanh cõi Phật, nơi mắt sanh cõi trời, ngực nóng sanh cõi người, bụng nóng sanh ngã quỷ, đầu gối đọa súc sanh, bàn chân xuống địa ngục. Lúc này mọi người nên khẩn thiết mà niệm Phật, không nên thăm dò hơi nóng của người lúc lâm chung, họ quyết định đới nghiệp vãng sanh.

                  Ta thấy người khác chết, tâm ta nóng như lửa,

                  Không phải nóng người khác, sẽ đến lượt ta đây.

                  Cố gắng thực hành để giúp đỡ thân nhân mình như sau:

                  1/ Khi người bệnh ra đi, tất cả các thành viên còn lại tập trung Niệm Phật, thay phiên nhau hướng về người mất mà niệm Phật, tối thiểu cũng phải được 8-12g.

                  2/ Quạt máy không được quạt thẳng vào thân thể của người lâm chung.

                  3/ Không được coi ngày, giờ tẩn niệm, không được gọi nhà quan ,đặt áo quan, dựng rạp, kê bàn ghế vv… khi chưa chấm dứt thời gian niệm Phật.

                  4/ Không nên thông báo cho người thân, bà con, bạn bè biết vội,để chánh gây động tâm đến người ra đi , động tâm đến người đang trợ niệm .

                  5/ Tuyệt đối không được khóc lóc, ôm, rửa , thay y phục, đụng chạm, di chuyển, người lâm chung.

                  6/ Không được bỏ (đặt) bất cứ vật gì vào miệng vào tay,vào túi áo, túi quần người lâm chung .

                  7/ Không được đặt nải chuối nên bụng người mất.

                  8/ Không được để cơm, trứng trên đầu giường theo tục lệ cũ.

                  9/ Không được nấu nướng , chiên, xào, có mùi cá, thịt, hành, tỏi ,hẹ … (Ngũ tân).

                  10/ Trong suốt 49 ngày, gia đình nên ăn chay, hồi hướng công đức cho người lâm chung là tốt nhất .

                  Điều QUAN TRỌNG và DUY NHẤT gia đình cần phải làm trong lúc này là : Giữ tâm thanh tịnh , tập trung niệm Phật cầu xin Đức Phật A Di Dà phóng quang tiếp dẫn người thân được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

                  Thân ái! Cư Sĩ Minh Phúc

                  CÁCH XEM SỐ ĐIỆN THOẠI TỐT HAY XẤU THEO PHƯƠNG PHÁP KINH DỊCH

                  Tôi viết bài này với chủ ý để hướng dẫn các bạn muốn tìm hiểu triết lý trong  Kinh  Dịch, tức   vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan, cách xử thế trong Kinh Dịch  mà tôi gọi là  Đạo Dịch, Đạo của bậc chính nhân quân tử thời xưa.

                  TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG THUẬT SỐ

                  THEO THUYẾT DỊCH HỌC

                  CƠ SỞ ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT TẠI HÀ NỘI

                  ỨNG DỤNG DỊCH HỌC TRONG DỰ BÁO MỆNH VẬN

                  Dự báo mệnh vận cá nhân thông qua các dãy số :

                  Chỉ cần biết những số điện thoại của một người (kể cả số nhà, số xe, số CMT…) đã, đang và sẽ được sử dụng, có thể chiêm báo về công danh tài lộc, sức khỏe, vận hạn của người đó mà  không cần biết  tuổi và  nhân dạng.

                  Tư vấn và hoá giải các dãy số có nội dung xấu:

                  Tư vấn chọn số điện thoại theo tuổi, nghề nghiệp và tâm nguyện.

                  Hóa giải các dãy số có nội dung xấu nhưng khó thay đổi (như số xe, số nhà…) bằng cách dịch Quẻ (chèn số, đổi quẻ xấu thành quẻ tốt)

                  Tư vấn năm kết hôn, năm sinh con theo Thập Bát cục Thông thiên khiếu và Vòng Tràng sinh, tư vấn ngày giờ mổ đẻ theo Tứ trụ.

                  Dự báo cho người xem Quẻ biết  kết quả tôt – xấu của các dự tính, các công việc sẽ thực hiện, các quan hệ  làm ăn, quan hệ tình cảm với đối tác… dựa vào cách bốc quẻ Thể – Dụng (quan hệ Chủ thể – Khách thể ).

                  Lập lá số Kinh Dịch :

                  Tự ngàn xưa, trong dân gian đã lưu truyền rất nhiều loại hình dự báo (nói cách khác là xem bói) như xem tướng mặt, xem chỉ tay, xem quả cau lá trầu, xem bài cào, xem tử vi…

                  Tử vi được coi là cách xem khoa học nhất vì dựa trên cơ sở tứ trụ (bốn mốc thời gian: năm, tháng, ngày, giờ sinh). Tuy nhiên nó vẫn có những hạn chế nhất định khi gặp các trường hợp người xem có cùng ngày tháng năm sinh, giờ sinh, thậm chí cùng zen di truyền (sinh đôi).

                  Bốc Dịch là loại hình dự báo khắc phục được hạn chế đó. Bằng cách xem này, không nhất thiết phải nhớ ngày giờ sinh, mà chỉ cần tâm thành, thực lòng muốn xem, cần xem, tập trung tinh lực khi gieo quẻ.

                  Lập lá số Kinh Dịch thực chất là lập bản dự báo chi tiết từng tuần lễ về công danh tài lộc, sức khoẻ, vận hạn,…trong một năm âm lịch theo các quẻ Dịch, không cần biết tuổi và  nhân dạng, phân biệt được số mệnh của những người có năm tháng ngày giờ sinh giống nhau (thậm chí sinh đôi) bằng cách Bốc Dịch.

                  Yêu cầu quan trọng đối với người muốn lập lá số, hoặc xem quẻ:

                  Phải tâm thành, tập trung tinh lực.

                  “Tâm thành thì ứng nghiệm” thật ra không phải vấn đề mê tín. “Tâm thành” nói theo cách hiện nay là “ ý nghĩ phải tập trung”, tức là người đến hỏi việc phải tập trung sự chú ý vào việc muốn hỏi. Trong quá trình tập trung suy nghĩ, các thông tin cần biết được chuyển hóa thành dòng điện sinh học, nhờ tác dụng của từ trường thân thể mình, chuyển qua tay đến đồng tiền hoặc dụng cụ  gieo Quẻ để có thể điều khiển được đông tiền sấp hay ngửa, hoặc để bốc đúng Quẻ mình cần. Nếu “ý niệm” và tinh lực của người xin quẻ không tập trung, suy nghĩ lung tung, dòng điện sinh học sẽ không đủ mạnh, thông tin bị nhiễu, không phản ánh chính xác vào tượng Quẻ, nên dự báo sẽ không chuẩn. Điều này cũng giống như ta luyện khí công, khi “ý nghĩ” không tập trung việc tập sẽ không đưa lại kết quả. Chính vì vậy mà người xưa đã có câu :” Phúc Chủ, Lộc Thầy ”, người xem có tâm thành, bốc đúng Quẻ mình cần, thì Thầy phán mới chuẩn và linh nghiệm, vì khi này người Thầy chỉ dịch nghĩa của các Quẻ mà người xem bốc được mà thôi.

                  Người xưa còn nêu ra: không có việc, không bị ảnh hưởng, không động, không cần, không khác thường thì không xem quẻ… Tất cả những cái đó đều thuộc phạm trù “ý nghĩ” và là vấn đề nguyên tắc trong dự đoán.

                  TÌM HIỂU VỀ SIM KINH DỊCH

                  1-Thế nào là SIM KINH DỊCH?

                  Hiện nay trên thị trường, sim điện thoại được chọn theo nhiều quan điểm khác nhau và được đặt tên: Sim Phong Thủy, Thần tài, Thần lộc…

                  Sim Kinh Dịch là sim điện thoại mà các con số trong dãy được lựa chọn theo các quẻ Dịch mang nội dung tốt, chỉ ra định hướng vận động đến một đích khả quan, hợp với tuổi và đúng với tâm nguyện của người dùng.

                  2- Làm sao để biết sim điện thoại của mình tốt hay xấu theo quan điểm Kinh Dịch?

                  Dù vô tình hay cố ý chọn sim điện thoại theo quan điểm riêng, các con số trong dãy có thể mang nội dung tốt hoặc xâu. Người dùng có thể tư vấn trực tiếp hoặc điện thoại đến trung tâm để được dự báo thông qua các con số, không cần biết tuổi và nhân dạng.

                  3- Thay sim Kinh Dịch mang nội dung tốt có làm thay đổi được tình trạng hiện gặp của người sử dụng hay không?

                  Có thể hiểu một cách rất đơn giản là: nếu những con số trong các dãy số đang sử dụng chỉ hướng đi đến nội dung xấu, đến mục đích xấu, thì thay số sim nghĩa là thay đổi hướng đi đến mục đích tốt hơn, khả quan hơn nhằm cải tạo số phận, giảm nhẹ vận hạn mà theo số mệnh phải gánh chịu (giống như thay đổi hướng nhà, hướng cửa…trong phong thuỷ).

                  4- Sau khi sử dụng Sim Kinh Dịch liệu có còn gặp vận hạn nữa hay không?

                  Sự may mắn, hay rủi ro vận hạn của con người vốn dĩ do số mệnh áp đặt (số mệnh được quy định bởi năm tháng ngày giờ sinh và gien di truyền). Việc thay số điện thoại tốt cũng giống như thay hướng nhà, hướng cửa, hướng ban thờ, hướng bếp theo Phong Thuỷ. Không nên nghĩ rằng sau khi thay, trong cuộc đời sẽ không bao giờ gặp vận hạn nữa, vì trong các đại vận có năm tốt, năm xấu, trong các tiểu vận có tháng tốt, tháng xấu. Khi gặp năm tháng vận hạn, nhờ sự nỗ lực hướng thiện của bản thân, nhờ sử dụng hướng nhà tốt, số điện thoại tốt, …mà vận hạn được hạn chế hoặc giảm nhẹ.

                  Phải hiểu rằng nếu không có sự hóa giải đó thì vận hạn còn nặng hơn, nhiều hơn.

                  Làm sao để tin những số điện thoại mà chuyên viên tư vấn chọn ra là tốt?

                  Cở sở duy nhất để có thể tin những số điện thoại mà chuyên viên tư vấn chọn ra là những dự báo thông qua số điện thoại và các loại số mà mình đã và đang sử dụng có chính xác hay không (khi chưa biết tuổi và nhân dạng). Các dãy số đã đang sử dụng sẽ thông báo được cả quá khứ, hiện tại và tương lai của người sử dụng nó. Nên chiêm nghiệm cẩn thận trước khi thay số.

                  Sim Kinh Dịch được chọn như thế nào?

                  Sim Kinh Dịch được chọn theo tuổi, nghề nghiệp và tâm nguyện của người dùng.

                  Chỉ cần thay đổi một con số hoặc thay đôi vị trí các con số, trước hết đã làm thay đổi tổng của dãy số, sau đó làm thay đổi các quẻ Dịch, dẫn đến thay đổi nội dung, biến tốt thành xấu. Bởi vậy, không thể tuỳ tiện ghép những con số, những cặp số giống như dãy số của người khác.

                  Tại sao có người dùng số rất xấu theo Kinh Dịch mà vẫn phát công danh, tài lộc?

                  Những người dùng số rất xấu mà vẫn phát công danh hoặc tài lộc, trở thành những đại gia giàu có hoặc những người có quyền thế, chức sắc, nhưng đương nhiên họ phải gánh chịu cái xấu khác về sức khỏe hoặc tình duyên, ốm đau bệnh tật, vô sinh hoặc con cái hư hỏng…

                  TRUNG TÂM NGHIÊN CỨU VÀ ỨNG DỤNG THUẬT SỐ

                  THEO THUYẾT DỊCH HỌC

                  CƠ SỞ ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT TẠI HÀ NỘI

                  ỨNG DỤNG DỊCH HỌC TRONG DỰ BÁO MỆNH VẬN

                  Cách Tính Ngày Trùng Tang

                  Dân gian Á Đông xưa rất quan tâm đến nghi thức an táng cho người vừa mới mất. Người xưa cho rằng người ruột thịt vừa mất có ảnh hưởng tốt, xấu tới những người thân cùng huyết thống đang sống.

                  Khi hơi thở người bệnh không còn nữa tâm thức không phải lúc đó đã rời khỏi thể xác. Vậy ngay khi người bệnh chấm dứt hơi thở tâm thức bao lâu thì rời khỏi thể xác? Nhanh lắm là ngay sau khi mới chết chậm lắm là một hai ngày. Trên thực tế trường hợp nhanh và chậm rất ít xét chung là khoảng từ mười đến mười hai giờ đồng hồ thần thức sẽ rời khỏi thể xác. Đôi khi người bệnh đã chấm dứt hơi thở trong khoảng một vài ngày đột nhiên sống lại việc đó do hai nguyên nhân. Một là thần thức chưa rời khỏi thể xác hai là thần thức đã rời nhưng nhập trở lại.

                  Căn cứ trên thực tế đã xảy ra, vì thế chúng ta đối với việc lớn lâm chung ngàn vạn lần nên thận trọng. Người đời nhận thức sai lầm cho rằng người bệnh sau khi hơi thở chấm dứt là chết, ngay đó bèn khám nghiệm tử thi va chạm khiến người bệnh phải chịu vô vàn sự thống khổ. Nhân đây, quyển sách nhỏ này sẽ cung cấp các kiến thức thông thường khi lâm chung, để kêu gọi mọi người trong xã hội đối với việc trước và sau khi chết cần nên để ý và làm cho đúng pháp.

                  Thể xác thì biến hoại nhưng tâm thức không bao giờ mất. Gia đình nên chú trọng tâm thức của người chết, cần làm cách nào để thần thức không thống khổ; cần làm cách nào để có sự an tịnh; thần thức có những nhu cầu gì; cần tiếp dẫn thần thức đi về thế giới nào; cần làm việc gì để thần thức có lợi và tránh những việc gì gây tổn hại cho thần thức… Các vấn đề nêu trên là vô cùng quan trọng.

                  Người đời tuy có kiền thức sâu rộng nhưng đối với việc lớn lâm chung thì hoàn toàn không biết. Họ thường bảo: “Con người khi hơi thở chấm dứt là chết, chết là hết là đoạn diệt đó là lẽ tự nhiên“. Họ chỉ lo làm cách nào để tang ma to lớn, mọi người khen ngợi mà chẳng quan tâm đến sự lợi ích của người chết. những nhận thức của việc làm nông nỗi này khiến người chết vô cùng bi ai thống khổ, việc làm như thế không phải là người có trí tuệ.

                  Họ không biết hơi thở tuy không còn nhưng thần thức người chết vẫn chưa rời thể xác, người chết không chỉ còn ở trạng thái hấp hối có cảm giác mà cảm thọ của họ lúc này tột cùng đau đớn như rùa bị lột mai. Do đó, trước khi thần thức chưa rời thể xác người bà con cần đặc biệt quan tâm, nên đem những lời Phật pháp khai thị, với âm thanh trong trẻo dịu dàng để an ủi người bệnh khiến cho tâm họ được an lạc và có chỗ quy hướng.

                  Cho nên khi người bệnh vừa mới chấm dứt hơi thở, bà con không được di chuyển thân thể không được bi ai khóc lóc khiến thần thức người bệnh phải bi lụy. Đồng thời phải nên để tâm suy nghĩ giờ này thần thức đang ở đâu? Cần biết thần thức sẽ tùy theo nghiệp lực thiện ác để cảm thọ cảnh giới khổ đau hay hạnh phúc nào? Cần làm cách nào để tiếp độ thần thức ra khỏi ba cõi đạt đến sự an vui Niết bàn tịch tịnh? Những việc này người đời hoàn toàn không hay biết.

                  Người đời không biết lúc nào thần thức rời khỏi thể xác; không biết xót thương nỗi thống khổ của người chết; không biết tác dụng của việc cứu độ; không biết tẩm liệm đúng cách thức… Nói cách khác, đối với nguời chết việc cần làm thì họ không làm việc không nên làm thì họ lại làm, có thể nói không quá đáng đó là hạng người điên đảo không trí. Đối với vấn đề quan trọng “Chết” họ quy về thái độ bàng quang không hay biết, đã phụ ơn bà con lại phụ ơn hiếu đạo, chỉ làm cho xong việc cam tâm biến thành nhận thức sai lầm, như thế người sống đối với người chết há không phải là quá lạnh lùng hay sao?

                  Người bệnh sau khi hơi thở chấm dứt nhưng thần thức vẫn chưa rời thể xác nên họ vẫn còn tri giác. Phải trải qua một thời gian đến khi toàn thân lạnh hẳn thần thức rời thể xác ngay đó mới được gọi là chết.

                  Sau khi chấm dứt hơi thở trước khi thần thức chưa rời thể xác, thời điểm này tâm thức vô cùng thống khổ. Bởi do cảm thương thân phận đã chết mà rơi nước mắt; cũng nhân tham luyến thế gian thương yêu vợ con tài sản mà khó buông bỏ; hoặc nhân tâm nguyện chưa thành đột nhiên cái chết đến mà bi ai sầu não; hoặc nhân oan ức chưa bày tỏ mà không chịu nhắm mắt, vì thế vào thời điểm này là thời điểm mà mọi sự bi ai khổ não chồng chất. Nếu thể xác bị người sống xê dịch hoặc nghe tiếng kêu khóc, há chẳng làm cho thần thức muốn rời thể xác nhưng không rời được cảm thọ nỗi đau đớn vô vàn. Người sống nỡ nào lại nhẫn tâm như thế để làm hại người chết hay sao?

                  Người đời phần nhiều không hay biết cho rằng con người khi hơi thở chấm dứt là chết, do sự ngộ nhận này mà kết thành đại họa. Cho nên với những việc làm có hại bà con và con cháu hiếu thuận không thể không biết để tránh.

                  Lấy việc xê dịch thể xác người chết mà nói, chỉ cần người bệnh vừa mới chấm dứt hơi thở ngay đó bi ai khóc lóc hoặc sờ mó cơ thể mà kêu gào, hoặc tự ý chuyển đổi thế nằm, hoặc trước khi thân thể chưa lạnh hẳn mà vội tắm rửa thay quần áo, hoặc tiêm thuốc hồi dương, hoặc tiêm thuốc đề phòng thân sình thúi, hoặc mới chấm dứt hơi thở đã tống vào nhà xác, hoặc ngay trong ngày đã tẩm liệm, hoặc mới hai ba ngày đã hỏa táng …Tất cả những việc làm tàn nhẫn này, vì thần thức chưa rời thể xác nên người chết vẫn còn cảm giác vẫn phải cảm thọ tận cùng của sự thống khổ. Người sống làm các việc như thế tác hại đối với người chết không nhỏ khiến họ lâm chung thống khổ đọa lạc, thế là từ chỗ thương yêu mà trở thành tàn hại như thế không đáng sợ hay sao.

                  Không biết rằng lúc thần thức chưa rời thể xác, người chết vẫn có sự thống khổ đồng như người sống. Người sống còn có thể kêu la cầu cứu kháng cự lại; còn người chết lúc này tuy vô cùng đau khổ nhưng không có cách nào kêu cứu kháng cự khiến họ nổi tâm sân hận. Người thế gian không hiểu một số vấn đề bình thường khi lâm chung khiến dẫn đến một số hậu quả bi thảm như thế há không đau đớn lắm sao. Người bệnh do sự thống khổ nên sanh tâm sân hận khiến thần thức đọa lạc trong ác thú, thế mà kẻ làm con hiền cháu thảo vẫn cứ dửng dưng không hay không biết.

                  Nhân đây tôi xin kêu gọi mọi người, với người bệnh sau khi mới chấm dứt hơi thở trước khi thần thức chưa rời thể xác, trong khoảng thời gian từ mười đến mười hai giờ đồng hồ, phòng người bệnh nên duy trì sự yên lặng không có các việc chuyển động như trên đã nói, để bảo hộ thần thức người chết được yên tịnh và an ổn. Tư thế người bệnh nằm nên để tự nhiên không được xê dịch.

                  Sau khi toàn thân lạnh hẳn, chúng ta lấy vải cũ nhúng vào nước nóng rồi áp vào các bộ phận cong rút của cơ thể khiến cho mềm mại. Còn bằng trong khoảng thời gian trước mười đến mười hai giờ đồng hồ, chúng ta không nên dùng tay thăm dò hơi nóng không được để mèo chó va chạm, trong phòng bệnh không được nói chuyện tạp hoặc khóc lóc. Cần vận dụng trong khoảng thời gian này có biện pháp cứu độ hướng dẫn thần thức người bệnh hướng đến cảnh giới an lạc làm cho họ được vãng sanh Tịnh độ hưởng thọ mọi điều vui, đây là trách nhiệm của người bà con cũng là việc làm đúng hiếu đạo của con cái đối với người quá cố.

                  Thần thức rời thể xác nhanh hay chậm cùng với nghiệp lực con người tạo ra có mối quan hệ trực tiếp. Nói một cách đơn giản, người nghiệp lực cực thiện hay cực ác cho đến người được vãng sanh thì thần thức rời thể xác rất nhanh. Còn hạng phổ thông bình thường việc thần thức rời thể xác chậm hơn. Ví như người khi sống có tâm hiếu dưỡng cha mẹ nhân từ bất sát giúp đời cứu người…bởi nghiệp nhẹ nên khi chấm dứt hơi thở, thần thức trực tiếp sanh về cõi lành (Nhân đạo, Thiên đạo). Lại hạng người khi sống nham hiểm độc ác ngỗ nghịch bất hiếu sát sanh hại vật… do vì nghiệp nặng nên khi mới chấm dứt hơi thở, thần thức trực tiếp sanh về cõi ác (Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh).

                  Còn người sanh tiền phát tâm niệm Phật lâm chung mong cầu từ lực Phật tiếp độ; hoặc tu thiền định chứng Vô sanh pháp nhẫn đã ra khỏi Tam giới. Hạng người đó sẽ biết trước giờ chết, thân không bệnh khổ tâm không phiền não vui vẻ niệm Phật hoặc nhập định mà rời thể xác, trực tiếp vãng sanh Tịnh độ hay chứng đắc Thánh quả hưởng thọ vô lượng điều vui. Còn lại hạng người phổ thông bình thường nghiệp lực không thuộc cực thiện hay cực ác, thần thức rời thể xác sẽ chậm hơn. Thời gian nhanh và chậm có khác nhau, do đó ước định từ khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở là vậy.

                  Sau khi thần thức đã rời thể xác trước khi chưa thọ thân quả báo đời sau, trong khoảng thời gian này thần thức sẽ thọ thân trung ấm. Có người sau khi thọ thân trung ấm chỉ qua một hai ngày thì thọ thân quả báo đời sau có người một hai tuần thọ thân quả báo đời sau, nhưng tối đa là bảy tuần quyết định sẽ có chỗ cho thần thức thọ sanh.

                  Nói chính xác, chỗ thần thức rời thể xác là phần lạnh sau cùng của cơ thể, nhưng tối kỵ việc dùng tay thăm dò hơi nóng trên thân thể người chết. Vì thế, từ khoảng mười đến mười hai giờ đồng hồ là có liên hệ tình hình như bài trên đã nói. Nhưng nên xem thời tiết nóng hay lạnh hoặc địa phương có thích nghi hay không thích nghi, rồi ước lượng khả năng mà đem thời gian thăm dò hơi nóng người chết co lại hoặc kéo dài một chút đều có thể được.

                  Không gian không ngằn mé gọi là vũ, thời gian không cùng tận gọi là trụ. Ở trong khoảng vô cùng vô tận của vũ trụ, tất cả thần thức đều có sự tiếp xúc với các cảnh giới mà cảnh giới đó cũng vô lượng vô biên. Nói khái quát, cảnh giới Thánh nhân có bốn cảnh giới phàm phu có sáu. Tâm thể của mười cảnh giới này vốn đồng, nhưng vì sự mê ngộ nhiễm tịnh của mỗi loài bất đồng mà hình thành phàm Thánh, giải thoát hay trói buộc ngàn muôn sai biệt. Đây là nói việc làm Thánh hay phàm, hoặc hưởng thọ khoái lạc giải thoát tự tại, hoặc lãnh thọ thống khổ nghiệp chướng trói buộc đều do tự tâm cảm thành tự tâm là chủ tể.

                  Nhưng nay là thời Mạt pháp nếu hoàn toàn nương vào tự lực mà mong cầu chứng ngộ, vạn người tu khó được một hai người. Chúng sanh thời nay phần nhiều si ám mê nhiễm hư vọng điên đảo nghiệp trọng phước khinh chướng thâm huệ thiểm, như thế thì không mãi mãi trôi lăn trong Tam giới hay sao?

                  Đức Thích Ca Thế tôn nhân đó xót thương nên đặc biệt mở ra pháp phương tiện, chỉ bày pháp môn niệm Phật rất đơn giản mà dễ thành tựu. Ngài dạy rằng ở thế giới Tây phương có đức Phật A Di Đà, vị Phật đó nguyện lực rộng lớn, không luận là người thượng trí hay kẻ hạ ngu người hiền lương hay kẻ độc ác, chỉ cần hồi đầu hướng thiện phát tâm tín sâu nguyện thiết thành khẩn xưng niệm Nam mô A Di Đà Phật một lòng cầu nguyện vãng sanh thế giới Cực lạc, khi mạng chung Phật và Thánh chúng sẽ đến tiếp dẫn. Người đó ở trong khoảng một niệm liền được vãng sanh, vĩnh viễn thoát ly nỗi thống khổ luân hồi mãi mãi thọ hưởng sự an vui thắng diệu.

                  Nhân đây, tôi xin diễn bày pháp cứu độ trước và sau khi lâm chung ứng dụng vào thời điểm nguy ách này. Ngoài việc không được xê dịch cơ thể không bi ai khóc lóc ra bà con và bạn bè ở trong phòng bệnh nên giữ yên lặng để tâm và cảnh an tịnh, nên vì người bệnh mà đồng thanh xưng niệm Phật hiệu A Di Đà để dẫn dắt thần thức người bệnh nghe danh hiệu Phật, sanh lòng hoan hỷ, trong tâm duyên theo tiếng niệm Phật, tâm cảnh người bệnh sẽ khai sáng có cảm giác an toàn một lòng cầu sanh nước Phật, quyết định được vãng sanh thế giới Tây phương Cực lạc.

                  Đời người vài mươi năm, không những đã ở trong vòng danh lợi vật dục, được mất hơn thua, hội hợp chia ly, oán tắng ái biệt, thiên tai hỏa hoạn, sanh kế bức bách, phiền muộn lo toan, thù địch oán đối mà còn đời đời kiếp kiếp bỏ thân này lại thọ thân khác, nhân quả nối tiếp kiếp mãi xoay vần không thoát ngoài tứ sanh, trầm luân ngũ thú, trong cảnh huyễn sống huyễn chết vạn khổ chồng chất, thân tâm huyễn thọ sự thống khổ như thế nhưng chưa bao giờ có sự tỉnh ngộ.

                  Nên nghĩ tất cả các pháp trong thế gian đều là sanh diệt vô thường, đều là mộng huyễn không thực. Lại nghĩ nỗi thống khổ của ba ác đạo dễ vào mà khó ra, cõi người thì trược ác, phước trời thì dễ hết nhưng nghiệp nhân mỗi khi đã tạo khó mà tránh khỏi. Giả sử bị trầm luân trong ba cõi thì uổng thọ sanh tử luân hồi không có hạn kỳ. Vì thế chúng ta nên tinh tấn nhanh chóng hồi đầu, đem tất cả việc nhà thảy đều buông bỏ, đối với các pháp đều không tham luyến mà một lòng quy hướng về với Phật A Di Đà cầu nguyện vãng sanh thế giới Cực lạc.

                  Mỗi niệm mỗi niệm đều kiên cố đến khi mạng chung nhất định sẽ được Phật hiện thân đưa tay tiếp dẫn. Nghĩa là đức A Di Đà Phật cùng với Thánh chúng đồng đến đón tiếp, trong khoảng khảy móng tay liền được vãng sanh thế giới Di Đà thanh tịnh. Từ đây siêu phàm nhập Thánh thần thông tự tại thọ mạng không cùng, ra khỏi Tam giới thoát hẳn sanh tử, đây là hạng người có đại trí tuệ. Hoặc như mạng sống chưa hết thì nhờ công đức niệm Phật, quyết định tiêu trừ tội chướng thọ mạng thêm bền.

                  Nếu thấy bệnh tình của mình mỗi ngày mỗi nặng nên dặn dò phó thác mọi việc cho người nhà, như có người nào đến thăm đều xin họ vì mình niệm Phật không nên cùng họ nói chuyện tạp. Công đức niệm Phật là bất khả tư nghì. Kinh nói: “Niệm một câu A Di Đà có thể tiêu trừ các tội nặng trong nhiều kiếp sanh tử. Niệm một câu A Di Đà Phật, trên thấu đến trời Hữu đảnh dưới chí đến ngục Phong luân, chúng sanh nhiều như cõi vi trần thảy đều hưởng thọ sự lợi ích“. Do đó, công đức niệm Phật có thể siêu thoát quỷ thần có thể cứu độ được thân trung ấm. Nếu khi bệnh nặng thấy các oan hồn quỷ dữ đến khủng bố, hoặc biến thành các cảnh ưa thích để dụ dỗ, lúc đó chỉ nên thành khẩn niệm A Di Đà Phật, tà ma quỷ dữ nghe tiếng niệm Phật có thể siêu thoát hoan hỷ mà đi. Nhân đây, nhờ niệm Phật mà oán kết được hóa giải nghiệp chướng sớm tiêu trừ, bản thân rất thuận lợi vãng sanh thế giới Cực lạc.

                  Người niệm Phật là hoàn toàn nương nhờ vào nguyện lực đại bi của Phật A Di Đà nhiếp thọ. Vì thế nếu chúng ta một lòng xưng danh hiệu Phật thì trong ao thất bảo ở Tây phương có hiện ra một đóa hoa sen đề tên họ chúng ta, ngày kia khi chúng ta mạng chung sẽ thát sanh trong đóa sen đó. Nếu ở Ta bà này niệm Phật tinh tấn không giải đãi thì hoa sen ở Tây phương phóng ra bốn tia sắc báu ngày càng thêm rực rỡ. Thế giới Cực lạc sự thanh tịnh thù thắng trang nghiêm vi diệu, lầu các đều do bảy báu tạo thành, các báu kỳ dị thanh nhã hương khiết, ao báu nước bát công đức tẩy trừ tâm cấu bẩn, nhạc trời thường trỗi không đánh tự kêu, khí hậu không nóng không lạnh điều hòa thích nghi, cơm ăn áo mặc tùy ý hiện bày, chim báu rực rỡ hót ra diệu âm diễn nói lý khổ, không, vô thường, vô ngã, gió hiu hiu thổi cây báu giăng bày đều diễn nói vô lượng pháp âm vi diệu, sáu căn thanh tịnh không có các khổ, mọi trần lao cấu nhiễm tự nhiên tiêu trừ, trí tuệ thâm tiến đạt sâu thực tướng, thần thông tự tại mạng sống không cùng không còn các khổ chỉ hưởng thọ các điều vui .

                  Hạng người sau khi chết chỉ mong bà con vì mình làm Phật sự để siêu thoát, hoặc làm đám lớn cho dễ xem mà không biết khi sống nương vào bản thân tu học để cầu giải thoát chứng Thánh đạo là dễ, còn sau khi chết nương vào bà con làm công đức để cầu siêu thoát là khó. Giả sử bà con, con cái có tâm chí thành cung kính mời các vị cao Tăng đến làm Phật sự, lễ bái sám hối cầu Phật gia bị tất cả công đức đó trong bảy phần người chết chỉ hưởng được một phần, sáu phần công đức còn lại là thuộc về người sống cho đến thuộc về người xuất gia làm Phật sự.

                  Vì thế trước khi lâm chung, người bệnh nên vì bản thân mình mà làm tất cả mọi công đức, lúc đó bản thân sanh tâm hoan hỷ, tâm chí thành, tâm sám hối, tâm niệm Phật, bản thân đã biết rõ nương vào sức gia bị sẽ đạt được sự lợi ích rất lớn, rất dễ cứu độ. Tốt nhất là khi thân thể còn khỏe mạnh cố gắng phát tâm tu phước huệ, tụng kinh lễ sám, trai giới niệm Phật. Hiểu rõ được lẽ thật của vũ trụ nhân sanh, phát nguyện lớn lập chí lớn, tu Thánh đạo thành Thánh quả. Nhưng khi lâm chung có người khác trợ niệm lẽ đương nhiên là vô cùng cần thiết.

                  Nên mở máy niệm Phật, người bệnh phải giờ giờ phút phút lắng nghe niệm theo hoặc lắng nghe niệm thầm. Nếu tai người bệnh thường huân tập tiếng niệm Phật, khí lực sẽ tỉnh lại có thể tịnh hóa thân tâm tăng trưởng duyên lành, trưởng dưỡng Thánh thai, trong ruộng tám thức thường gieo giống đạo. Lâm chung lại được người khác trợ niệm trợ thành việc lớn vãng sanh, thực là trong khi bệnh không thể thiếu người bạn đồng tu tịnh nghiệp.

                  Nếu người bệnh bệnh tình quá nặng khó lành thuốc thang vô hiệu, gia đình nên mời các vị thiện tri thức đến khai thị cho người bệnh. Thiện tri thức nên đến trước người bệnh mà nói: “Cuộc đời vốn là khổ, không, vô thường, vô ngã, chỉ có thế giới Tây phương Cực lạc là cực kỳ trang nghiêm thanh tịnh. Con người dù giàu sang phú quý nhưng trong nháy mắt đã thành không. Cõi Tây phương thì sự khoái lạc vô cùng. Bà con nay sẽ vì ông mà đối trước Tam bảo lễ Phật sám hối, tụng kinh niệm Phật, bố thí phóng sanh ngõ hầu tăng trưởng phước đức cho ông“.

                  Người bà con không nên ở trước mặt người bệnh có nét ưu sầu thảm não để tránh người bệnh sanh khởi tình cảm luyến ái. Âm điệu niệm Phật không nên xen lẫn bi ai để tránh người bệnh dẫn khởi tâm sầu thương mà mất chánh niệm. Bà con nhất định không được khóc lóc chỉ là tăng thêm tình ái trói buộc phiền não thống khổ, thậm chí làm cho người bệnh bực mình mà sanh tâm sân hận do tâm sân hận mà đọa ác đạo, như thế há chẳng làm sai lạc việc lớn vãng sanh của người bệnh hay sao.

                  Người bệnh khi sắp lâm chung bà con nếu có ăn thịt uống rượu không nên để cho người bệnh thấy, nếu không người bệnh dễ mất chánh niệm sẽ đọa vào Tam đồ ác đạo.

                  Nếu người bệnh hơi thở đã chấm dứt, do vì thần thức chưa lìa thể xác nên lúc đó cơ thể người chết vẫn còn cảm giác, các vị lương y, người thăm viếng cần có thái độ cẩn thận nên nghe theo lời yêu cầu của gia đình. Trong thời gian mười đến mười hai giờ đồng hồ cần giữ sự yên lặng, đồng thời nên cung cấp khí lạnh hoặc nước đá để khí hậu phòng bệnh được mát mẽ. Lúc này cơ thể người bệnh không được di chuyển, không được đụng chạm các vật trong phong. Đến như tư thế người chết nên để nằm tự nhiên sau đó dùng vải cũ nhúng nước nóng áp vào tay chân người chết thì cơ thể có thể mềm mại như khi sống.

                  Phòng bệnh phải tuyệt đối yên lặng không được cười giỡn nói chuyện tạp, nếu trước khi người bệnh chấm dứt hơi thở chưa kịp mời thiện tri thức đến khai thị thì lúc này mời ngay vị thiện tri thức đến bên tai người chết lớn tiếng khai thị (nội dung khai thị như đoạn trước). Tâm người chết còn có sự hiểu biết nhờ khai thị khiến họ có chỗ quy hướng tâm có nơi nương tựa. Bà con và bạn bè nên chia ban luân phiên niệm Phật, trước niệm đủ sáu chữ Hồng danh khoảng mười phút sau đó chuyển sang niệm bốn chữ Hồng danh ” A Di Đà Phật ” mỗi câu mỗi chữ phải rõ ràng phân minh.

                  Tốt nhất là mọi người nên hòa theo tiếng niệm Phật trong máy của pháp sư, trong tâm liền nghĩ tưởng cầu nguyện Phật A Di Đà từ bi phóng quang tiếp dẫn. Tiếng niệm Phật không được gián đoạn khiến cho thần thức người bệnh nghe được câu Phật hiệu liên tục rõ ràng, mới có thể sanh tâm hoan hỷ cảm ứng được nguyện lực của Phật, mà theo Phật vãng sanh thế giới Cực lạc. Có điều khi trợ niệm trong phòng bệnh nên tránh làm phiền nhiễu đến những người bệnh khác.

                  Một niệm sau cùng khi lâm chung là thời điểm quyết định cho việc siêu thăng hay đọa lạc. Một niệm sau cùng nếu là niệm lành thì sanh về cảnh giới nhân thiên, một niệm sau cùng nếu là niệm ác thì đọa lạc vào cảnh giới Tam đồ, một niệm sau cùng nếu là niệm Phật thì vãng sanh về cảnh giới Tây phương. Một lòng niệm Phật là tâm lực, nguyện lực tiếp độ chúng sanh là Phật lực, sự cảm ứng là pháp lực. Ba lực bất khả tư nghì này dung hợp vào trong một câu Hồng danh, Phật A Di Đà sẽ tự nhiên trong tâm niệm Phật mà hiện thân tiếp dẫn, cho nên nếu tâm niệm sau cùng khi lâm chung là niệm Phật, người đó liền theo Phật vãng sanh về thế giới Cực lạc. Nhân đây, mục đích của bà con và bạn bè trợ niệm niệm Phật là hy vọng một niệm sau cùng của người bệnh là niệm Phật, theo Phật vãng sanh. Vì thế giờ phút lâm chung chúng ta trợ duyên người bệnh niệm Phật tức có sự diệu dụng thù thắng vô cùng.

                  Sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở từ mười đến mười hai giờ đồng hồ, không luận là có vãng sanh hay không người trợ niệm đều nên luân phiên tiếp tục niệm Phật. Nếu thần thức người chết đã vãng sanh thì nhờ công đức niệm Phật có thể tăng cao phẩm vị. Nếu người chết do mất chánh niệm không được vãng sanh thì thần thức người chết ở trong khoảng thời gian bảy ngày, hoặc chậm lắm bảy tuần nhờ công đức trợ niệm mà càng mau siêu thoát. Bởi vì thân trung ấm người chết vốn phiêu phiêu không định khổ sở trăm bề không nơi nương tựa. Trong thời gian sau khi chết đến bảy tuần, thân trung ấm ở trong mỗi niệm mỗi niệm luôn mong ngóng người bà con cốt nhục vì mình mà tạo phước làm công đức để cứu bạt khổ nạn. Vì vậy lúc này người bà con, một mặt nên liên tục thay ban niệm Phật khiến thân trung ấm nghe được tiếng niệm Phật mà được siêu thoát, giống như kẻ đói khát mà được uống nước cam lồ; một mặt cung thỉnh các bậc cao Tăng tụng kinh niệm Phật để cầu nguyện thần thức người chết mau được siêu thoát. Người bà con nên vì vong linh mà rộng tu phước huệ hồi hướng cho họ được tiêu trừ nghiệp chướng sớm được vãng sanh Tịnh độ.

                  Nếu người chết khi sanh tiền chưa từng biết Phật pháp, hoặc căn bản vốn không tin Phật pháp nhưng vì thân trung ấm hiện đang rơi vào cảnh khốn khổ nên họ rất mong ngóng được cứu độ. Do đó trong bảy tuần thất tiến vong là thời gian có thể chuyển hóa tâm thức mê lầm của họ. Ở trong thời gian quá độ nghiệp báo một đời chưa rõ ràng này người bà con nên vì người chết mà làm các công đức, vận dụng tâm chí thành tha thiết hồi hướng công đức cho người chết. Mục đích là chuyển hóa định nghiệp đọa lạc Tam đồ ác đạo của họ thành nhân tố vãng sanh Tịnh độ vĩnh viễn hưởng thọ mọi sự an lạc.

                  Sau khi mạng chung người bà con nên ở trong thời gian bảy tuần vì người chết mà tu tạo các công đức, bố thí phóng sanh cứu giúp kẻ nghèo đói, cúng dường Tam bảo lễ bái sám hối tụng kinh niệm Phật, cầu Phật gia bị khiến người chết xa lìa nghiệp chướng vãng sanh Tịnh độ. Bà con và con cái nên lấy sự hiếu thuận sâu nặng và công đức chí thành tha thiết để niệm Phật, như thế hai bên kẻ sống người chết mới có sự cảm ứng mới có thể làm cho người chết cảm được công đức cứu độ.

                  Người chết thăng trầm trong khổ đau hay hạnh phúc trách nhiệm đó hoàn toàn tùy thuộc vào bà con. Tốt nhất là người bà con nên tránh đi tất cả những việc làm không có ý nghĩa mà chuyển thành những công đức cứu giúp kẻ nghéo khó… Vì thế không nên tẩm liệm những đồ quý giá, không cần phát tang to làm đám lớn, không nên tụ tập ăn uống linh đình, không nên quá chú trọng đến hình thức mà điều quan trọng là làm sao cho người chết đạt được sự lợi ích chân thật.

                  Cúng tế vong linh nên lấy việc niệm Phật làm chính bà con và bạn bè đều nên tham gia niệm Phật. Niệm Phật cứu độ người chết công đức rất lớn rất dễ làm rất tinh tế và có sự lợi ích chân thật. Có điều những người tham gia niệm Phật nên tránh ăn mặn uống rượu và cữ ngũ tân.

                  Các chùa Thiện đạo, chùa Pháp vân, Hoa nghiêm Liên xã ở thành phố Đài bắc đều có cho thỉnh máy niệm Phật, gia đình nên thỉnh về để mọi người hòa theo tiếng niệm Phật của pháp sư trong máy mà niệm. Muốn cho người chết đạt được sự lợi ích, gia đình ngoài việc tu tạo các công đức còn nên ngày đêm chia ban luân phiên niệm Phật, sao cho tiếng niệm Phật không gián đoạn, mong cầu Phật tiếp dẫn thần thức người chết vãng sanh Cực lạc. Chớ nên đốt giấy tiền vàng mã và chôn cất các vật dụng của người chết. Làm như thế chính là hy vọng người chết đọa lạc vào trong cảnh giới Nga quỷ. Gia đình cần nên nhớ điều này.

                  Sau khi thần thức rời khỏi thể xác ngoại trừ những người có nghiệp lực cực ác hay cực thiện, hoặc vãng sanh Thánh đạo đều không phải trải qua giai đoạn thân trung ấm, còn lại hạng người phổ thông bình thường phần nhiều đều phải thọ thân trung ấm. Nay tôi xin nói rõ tình hình tại sao có một số người đã chết rồi mà sống lại, mong các vị để tâm tham khảo.

                  Thân trung ấm không nơi nương tựa phiêu phiêu không định, trong giai đoạn sau khi đã chết nhưng chưa có chỗ thọ sanh, hoặc chấp thân này là ta mà lấy đó làm đối tượng để thọ sanh, nếu tử thi chưa hoại có thể hồi dương trở lại. Có một số người hốt nhiên chết bất đắc kỳ tử nếu thọ mạng chưa đáng chết trong thời gian bảy ngày dưới âm ty trả về cũng có thể sống trở lại.

                  Nhân đây, sau khi người bệnh chấm dứt hơi thở cho đến lúc tẩm liệm bà con đối với cơ thể người chết phải giờ giờ phút phút để tâm theo dõi, không luận thần thức đã rời thể xác hay chưa thảy đều nên đối xử như người đó đang còn ở trạng thái hấp hối. Đối với việc tắm rửa thay quần áo người chết cho đến quá trình tẩm liệm người bà con cần phải trực tiếp trông xem. Tóm lại, từ khi người chết chấm dứt hơi thở cho đến lúc tẩm liệm bà con không được rời khỏi tử thi, nên thực tâm hiếu đạo “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm“, đây là đạo lý muôn thuở. Nếu cho rằng nay là xã hội công nghiệp nên bỏ bớt các thủ tục rườm rà gây trở ngại, nhưng đâu có thể cho rằng xã hội công nghiệp là đem thân thể cha mẹ chết chưa lạnh mà tống vào nhà xác hay nơi mai táng rồi không đoái hoài sao?

                  Các thành phố lớn trên thế giới đều có thiết lập nhà mai táng, gia đình người chết đối với mọi việc làm của nhà mai táng không nên quá tin tưởng khiến đang tâm làm cho người chết bị ngược đãi. Một số gia đình chỉ biết đem tử thi giao cho nhà mai táng, bản thân không quan tâm không để ý đến việc người chết phải chịu biết bao sự thống khổ. Gia đình và người phúng điếu chỉ quan tâm đám ma cho rình rang, người chết áo mũ cho chỉnh tề để tẩm liệm… mà không chú ý đến các việc trước và sau khi đưa tử thi vào quan tài. Vì để hợp tình hợp lý đúng với sự hiếu đạo, hết thảy quá trình trước khi chết cho đến lúc tẩm liệm gia đình nên trực tiếp giám sát để tránh cho người chết khỏi phải chịu sự thống khổ; “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm” là truyền thống văn hóa đạo đức của người Trung hoa là hiếu đạo luân thường cố hữu của con người.

                  Gia đình người chết nếu cho rằng cần nên tuân thủ theo các việc làm của nhà mai táng gia đình khỏi phải trực tiếp giám sát, đây quả thật là đại đại bất hiếu là hoàn toàn không phù hợp với tập tục tốt đẹp xưa nay của người Trung hoa. Nếu như nhà mai táng tự làm mà không có lương tâm nghề nghiệp đây không phải là tổn hại cho người chết lắm sao? Con cháu hiếu thuận há không cần cảnh giác mà yên tâm sao? Huống còn chạy theo một số hủ tục, có một vài nhà mai táng trước khi tẩm liệm họ dùng dao mổ bụng tử thi lấy nguyên phần ruột bên trong rồi độn mạt cưa vải cũ vào. Hoặc dùng dao kéo mổ tử thi để tiện việc tẩy trùng. Cách đây mấy năm có một nhà mai táng ở xứ nọ bị gia đình khởi tố vụ cưỡng dâm xác chết.

                  Phàm các việc làm tàn bạo thảm hại này căn bản là do gia đình khi đưa tử thi vào không trực tiếp giám sát mọi việc làm của nhà mai táng. Còn nhà mai táng như thế chẳng khác nào cảnh Địa ngục ở trần gian? Nếu người chết thần thức chưa rời thể xác lúc này người chết vẫn còn có cảm giác như đang hấp hối,

                  việc xử lý tử thi một cách tàn bạo của nhà mai táng há không phải là lò mổ hay sao? Tóm lại, không luận thần thức đã rời thể xác hay chưa với người chết chúng ta không được đối xử ngược đãi họ, nên lấy sự hiếu đạo của con người mà đặc biệt thận trọng việc này. Nhà mai táng ở các địa phương, việc làm của họ tuy không tận tình nhưng nếu gia đình trực tiếp giám sát quyết họ sẽ làm đúng quy củ.

                  Nhà mai táng là nơi mà tất cả mọi người đều phải trải qua, đây là công việc chung của xã hội; nhằm để tiêu trừ tội ác duy trì và bảo hộ sự hiếu đạo của con người, do đó mọi người không nên có tâm xem thường. Nhân đây, nhà mai táng ở các nơi nên mời các vị hiền nhân văn sĩ đóng góp các ý kiến để cải tiến, ngõ hầu kiến lập nội quy mô phạm cho mình. Tôi xin lược một vài ý kiến đối với các việc làm của nhà mai táng hiện nay mong các vị lưu tâm xét kỹ.

                  Tất cả mọi sự sinh hoạt cho đến phòng ốc, khuôn viên… của nhà mai táng chỗ nào còn thiếu thốn, người dân trong địa phương và chính quyền sở tại cần tạo điều kiện quan tâm giúp đỡ để cảnh quang được sạch đẹp.

                  Đối với người chết tuyệt đối không được làm các việc làm trái với sự hiếu đạo của con người.

                  Quá trình xử lý người chết của nhà mai táng nên công khai không được bí mật ngược đãi, gia đình người chết cần phải trực tiếp giám sát mọi việc làm của nhà mai táng đối với người chết.

                  Nếu gia đình có những ý kiến không đồng tình với việc làm của nhà mai táng trong quá trình xử lý người chết, nhà mai táng nên nghiên cứu cải thiện.

                  Nên lấy nguyên tắc phù hợp với sự hiếu đạo của con người để xử lý.

                  Trước khi tẩm liệm nên mời gia đình đến giám định mọi việc làm đối với người chết lấy đó làm nguyên tắc. Tại các thành phố lớn nên thiết lập thêm các nhà mai táng tăng thêm các bàn thờ vong để gia đình tiện việc cúng tế. Kêu gọi mọi người cần thực hành hiếu đạo “Theo hầu ở bên đích thân tẩm liệm”. Vì sự tiến bộ của xã hội nhà mai táng cần phải có đầy đủ nội quy mô phạm.

                  Mùa nóng xác chết rất mau sình thối có thể quyết định sớm hơn. Một số nơi người chết mới chấm dứt hơi thở hai ba ngày liền cử hành hỏa táng, đây là việc làm vô cùng nguy hiểm và tàn nhẫn cần phải thận trọng. Người xưa từng nói: “Từ ba đến bảy ngày có khi thần thức vẫn chưa rời thể xác“, câu nói này là chỉ một số trường hợp đặc biệt nhưng chúng ta cũng nên lấy đó để cảnh giác.

                  Mọi ý muốn của mình nên dặn dò trước cho gia đình

                  Thời gian chóng qua tuổi thơ nháy mắt đã già yếu nên con người khi tuổi còn trẻ cần đem bản văn này để mọi người trong gia đình cùng tham khảo, mọi ý muốn của mình trước và sau khi lâm chung phải dặn dò rõ ràng với con cháu đó là thượng sách. Đối với một số người trẻ tuổi với việc sống chết họ không chút để tâm, người lớn nếu không đem những chủ trương của mình dặn dò trước với con cháu thì đến lúc lâm chung trong tâm tuy còn minh mẫn nhưng miệng không thể nói được, con cháu nếu xử lý các việc không như ý tâm sẽ khởi phiền não, thần thức sẽ oan uổng chịu phải những sự khổ nạn.

                  Lâm chung niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ cần có đầy đủ nhân tự lực và duyên tha lực. Tự lực là chánh nhân để vãng sanh Tây phương, tha lực là trợ duyên để vãng sanh Tây phương. Nhân và duyên hòa hợp mới có sự cảm ứng thành tựu việc lớn vãng sanh.

                  Đức Di Đà thương nhớ chúng sanh chẳng khác nào như mẹ nhớ con, chúng sanh nào có tâm tín nguyện trì danh nhớ Phật niệm Phật như con nhớ mẹ, hai đàng có sự thương nhớ sâu nặng không lúc nào ngăn cách tất có sự cảm ứng lẫn nhau người đó quyết sẽ được Phật nhiếp thọ. Không luận cảnh duyên thuận nghịch hay khổ vui ngay cảnh đó đều tuyệt hẳn ngoại duyên tâm không theo cảnh mà chuyển, ở trong mọi lúc mọi nơi đều chuyên cần trì danh niệm Phật thâu nhiếp cả sáu căn tịnh niệm nối nhau. Lâu ngày công phu sẽ thuần thục, đến khi lâm chung mới có thể buông bỏ mọi duyên đề khởi câu Phật hiệu. Lâm chung nếu chánh niệm hiện tiền tức sẽ được Phật tiếp dẫn, như trong khoảng khảy móng tay liền được vãng sanh về thế giới Cực lạc.

                  Người bệnh khi lâm chung người khác vì họ mà niệm Phật trợ niệm, một là có thể trợ giúp người bệnh đề khởi tâm niệm Phật, hai là có thể trợ giúp người bệnh sám hối nghiệp chướng. Nếu nghiệp chướng của họ tiêu trừ thì hoa sen báu và Thánh chúng tất cả mọi thắng cảnh Tịnh độ tự nhiên hiện tiền.

                  Người nào khi lâm chung có được tâm tín sâu nguyện thiết, có được tâm khẩn thiết chí thành niệm Phật như bình thường, người đó một niệm sau cùng là niệm Phật đó là nhân tự lực.

                  Người nào khi bình thường không có tâm tín sâu nguyện thiết chí thành niệm Phật, hoặc tuy có tâm tín sâu nguyện thiết chí thành niệm Phật nhưng công phu chưa được thuần thục, đến lúc lâm chung gặp được thiện tri thức khai thị mà sanh tâm hoan hỷ, sanh tâm chánh tín phát nguyện cầu sanh, tâm chí thành niệm Phật đó cũng là nhân tự lực.

                  Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng độ khắp các loài chúng sanh, thế giới Cực lạc thanh tịnh trang nghiêm đó là duyên tha lực.

                  Thiện tri thức khéo khai thị khiến người bệnh sanh tâm chánh tín, buông bỏ mọi duyên trần một lòng niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Gia đình và liên hữu vì người bệnh mà niệm Phật trợ niệm, từ khi chấm dứt hơi thở cho đến mười hay mười hai giờ đồng hồ, lại không chuyển dịch cơ thể không bi ai khóc lóc đó cũng là duyên tha lực.

                  Nếu người nào khi lâm chung nhân tự lực và duyên tha lực cả hai đều đầy đủ thì sẽ có sự cảm ứng lẫn nhau, người đó nhất định sẽ được Phật tiếp dẫn, niệm trước vừa lâm chung niệm sau đã có mặt ở Tịnh độ. Nếu ai có sự ứng hợp nhân và duyên như trên thì vạn người niệm Phật vạn người vãng sanh.

                  Người nào thường ngày tuy có tâm tín nguyện niệm Phật nhưng đến lúc lâm chung vì bệnh khổ bức bách khiến tâm niệm Phật không đề khởi được, để rồi khởi lòng tham luyến tình ái dục niệm thế gian cho đến vợ con tài sản, ý niệm tham luyến này buông không xuống, trường hợp này là không có nhân tự lực.

                  Người nào nếu lúc lâm chung chẳng có thiện tri thức đến khai thị cũng không có ngưới niệm Phật trợ niệm, lại gặp gia đình không biết mà chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc phá hoại chánh niệm, trong tâm người chết vô cùng phiền muộn nhưng không thể mở miệng nói được, do đó sự thống khổ phiền muộn càng tăng, trường hợp này cũng là không đủ duyên tha lực.

                  Người nào khi lâm chung có đủ nhân tự lực nhưng thiếu duyên tha lực, hoặc khi công phu niệm Phật thuần thục không cần phải người khác niệm Phật trợ niệm nhưng vì gia đình không biết mà chuyển dịch cơ thể bi ai khóc lóc khiến phá hoại chánh niệm, trường hợp này là có nhân mà không có duyên cũng không thể vãng sanh.

                  Người nào nếu khi lâm chung chỉ nương vào duyên thiện tri thức khai thị gia đình niệm Phật trợ niệm, không bị chuyển dịch cơ thể không bi ai khóc lóc nhưng bản thân vì bệnh khổ bức bách , hoặc tâm bị trói buộc vào sự tham luyến tình ái dục niệm thế gian vợ con tài sản mà buông không xuống, vì thế tâm tín nguyện niệm Phật không đề khởi được, trường hợp này là có duyên mà không có nhân cũng không thể vãng sanh.

                  Đức A Di Đà thệ nguyện sâu rộng như vầng trăng sáng tỏ không chỗ nào mà ánh trăng không chiếu. Chúng sanh phát tâm niệm Phật như ao trong yên tĩnh không động. Nước ao trong lặng thì bóng trăng tỏ hiện, tâm chúng sanh thanh tịnh thì chư Phật hiển bày. Người niệm Phật với công phu thuần thục sẽ cảm thông với Phật, người đó khi lâm chung nương vào nguyện lực của Phật quyết định sẽ được vãng sanh thế giới Cực lạc.

                  Kết luận

                  Chúng ta từ vô thỉ đến nay bởi một niệm bất giác mà chạy theo ngoại cảnh phan với duyên trần. Bởi sức nhân duyên si vọng huân tập khiến trong tâm sanh diệt niệm khởi phát sanh các món điên đảo, cho đến toàn chân thành vọng che đậy chướng ngại bản tánh diệu minh. Do vì tâm sanh nên các pháp sanh do vì pháp sanh nên các tâm sanh, tâm cảnh níu kéo triển chuyển vô cùng. Bởi phiền não tham sân si phát từ thân miệng ý tạo thành hữu lậu khởi hoặc tạo nghiệp, nhân nghiệp mà cảm quả do quả mà nhân khởi, nhân và quả nối nhau không bao giờ có gián đoạn.

                  Vì thế chúng sanh đời đời kiếp kiếp bỏ thân này lại thọ thân khác lưu chuyển không hạn kỳ, mãi mãi trôi lăn nơi biển nghiệp luân chuyển trong Tam giới. Nhân đây, huyễn hiện thăng trầm nơi sáu thú uổng thọ đại khổ của thân tâm, sự thống khổ bức bách vô cùng mà chúng sanh không hay không biết. Nên rõ, nhân vọng chấp mà có sanh vì sanh mà có diệt, sanh diệt gọi là vọng hết sanh diệt gọi là chân.

                  Bởi thấu tỏ được lý duyên sanh như huyễn vọng niệm vốn không mà siêng tu Giới định tuệ để có ngày thể nhập chân như Phật tánh, thấy rõ được bản thể Bất động chặt đứt được sóng lớn sanh tử. Cũng ngay đây dứt hẳn vọng tưởng sanh diệt huyễn hóa ngộ nhập thể tánh chân thật bình đẳng nhất như. Nhưng toàn nương vào sức tự lực để đoạn hoặc chứng chân phản bổn hoàn nguyên, ngõ hầu đạt mục đích xuất ly Tam giới liễu sanh thoát tử, trừ phi người nào đã trải qua nhiều kiếp tiệm tu túc thế đã lắm phen huân tập giống đạo, còn không thì tuy trải qua nhiều kiếp tu hành e rằng vẫn khó có thể chứng ngộ.

                  Duy có pháp môn Tịnh độ nương nhờ vào từ lực của Phật có thể đới nghiệp vãng sanh. Chỉ cần chúng sanh nào có tín sâu nguyện thiết chí thànhh niệm Phật cầu sanh Tịnh độ là đều có thể vượt tắt Tam giới không còn phải thọ thân đời sau. Cho nên lúc lâm chung niệm Phật cầu sanh thế giới Cực lạc đó là then chốt để siêu phàm nhập Thánh cũng là đường tắt mau chóng thành tựu Chánh giác, bỏ con đường tắt này thì không còn con đường nào an ổn hơn. Bởi tín nguyện trì danh là sanh lộ để liễu sanh thoát tử là phép mầu để thoát khỏi nghiệp chướng buộc ràng. Lại dùng tịnh duyên tăng thượng mà mau chứng Vô sanh, tiếp lấy trí lực nguyện lực nhập vào trần lao mà bạt tế quần mê sanh tử.

                  Xét qua hai môn tự lực và tha lực thì tự lực tu hành phải nghiệp tận tình không mới phá được vô minh chứng pháp tánh, tất nhiên người tu phải trải qua nhiều kiếp mới thành chánh giác, việc khó và dễ thành Phật của hai môn khác xa trời vực. Cổ đức nói: “Chỉ thấy được Di Đà còn lo gì tỏ ngộ”. Vì vậy, chúng ta chỉ cần được vãng sanh Tịnh độ quyết định sẽ thấy Phật nghe pháp mở bày Tri kiến Phật. Nếu chứng được Vô sanh pháp nhẫn được Phật thọ ký thì không khác gì được tăng cao Thánh vị. Từ đây tận cùng vị lai kiếp thường hưởng thọ pháp lạc, thường ra vào trong mười cõi tuyên dương Chánh pháp, gắng sức tu hành nỗ lực hóa độ chúng sanh thực hành đạo lớn Bồ đề. Do đây, trong thì chứng Thánh trí để thoát ly sanh tử ngoài thì diễn bày vạn hạnh để thể nhập vào biển nguyện. Nhập Niết bàn nhưng không rời bỏ đại bi thường hành phương tiện độ người nhưng chưa từng ra ngoài bản thể.

                  Người học Phật nên lập chí nguyện lớn phát tâm Vô thượng Bồ đề mong cầu chứng được quả vị Vô sanh, sau khi được Phật thọ ký hướng thẳng đạo lớn Bồ đề, dụng sức trí tuệ bi nguyện đi vào khắp biển khổ trần lao phiền não, khởi Vô duyên đại từ vận dụng Đồng thể đại bi bình đẳng làm lợi ích khắp tất cả chúng sanh, lấy Tứ nhiếp tịnh hóa chúng sanh sớm thoát khỏi Ta bà ngũ trược ác thế mau lên cữu phẩm nơi Cực lạc liên bang. Như thế, rộng độ khắp pháp giới chúng sanh trải qua cực vi trần số kiếp, viên tu vạn hạnh, viên mãn vạn đức bi trí song vận trí tuệ cụ túc mà chứng Vô thượng chánh giác, cũng ngay đó gọi là viên mãn Vô thượng đại Bồ đề. Đó là thành tựu mục tiêu cứu cánh “Thượng cầu Phật đạo hạ hóa chúng sanh”. Đó là thay thế đức Như lai đảm nhận trách nhiệm độ thoát chúng sanh lợi khắp các loài hàm thức. Đó là bậc đại trượng phu thực hành Bồ tát đạo. Đó là chân tinh thần phát huy rực rỡ Đại thừa Phật giáo.

                  Biên soạn bản văn này chẳng có tánh chất thời gian chẳng có tánh chất phương sở, chỉ vì tất cả con người ở hiện tại và tận cùng vị lai mà đề xướng các kiến thức cơ bản trước và sau khi lâm chung. Mong các vị hiền nhân văn sĩ phổ biến rộng rãi bản văn: ” Sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời ” này. Mong cầu ở hiện tại và tận cùng vị lai có bao nhiêu người khi lâm chung đều được tiêu trừ nghiệp chướng xa lìa phiền não, trở lại nguồn tịnh tâm đồng lên bờ giác, đều được vãng sanh thế giới Tây phương Cực lạc của đức Phật A Di Đà.

                  Hoan nghênh các vị hiền sĩ đã đề xướng ấn tống tặng bản văn này cho người đọc ngõ hầu rộng kết tịnh duyên, triển chuyển lưu truyền khiến mọi người trong hiện tại và vị lai được hưởng sự lợi ích, công đức này vô lượng phước đức này vô biên, tổ tiên sớm được siêu thăng con cháu thảy đều được nhân từ hiếu đạo.

                  – “Nhập mộ”: là người mất “ra đi” và được “nằm xuống” vĩnh viễn , không còn vương vấn trần ai. Thể hiện sự an lành, yên nghỉ. Chỉ cần một “nhập mộ” của tuổi hoặc tháng, ngày giờ là được coi là tốt.

                  – “Thiên di”: là dấu hiệu ra đi do “trời định”, người mất lúc đó được trời đưa đi. Sự ra đi này nằm ngoài mong muốn của người mất, nhưng cũng là hợp với lẽ trời.

                  – “Trùng tang”: là dấu hiệu ra đi không hợp số phận, không dứt khoát, có nhiều ảnh hưởng tới người ở lại. Theo quan niệm xưa, nếu gặp phải trùng tang mà không có “nhập mộ” nào thì cần phải mời người có kinh nghiệm làm lễ “trấn trùng tang”.

                  Cách tính trùng tang phổ biến như sau:

                  – Dùng 12 cung địa chi trên bàn tay để tính. Nam khởi từ Dần tính theo chiều thuận, Nữ khởi từ Thân tính theo chiều nghịch.

                  – Bắt đầu là 10 tuổi, cung tiếp theo là 20 tuổi, … tính đến tuổi chẵn của tuổi người mất. Sau đó cung tiếp theo là tuổi lẻ tính đến tuổi của người mất, gặp ở cung nào thì tính là cung tuổi.

                  – Từ cung tuổi, tính cung tiếp theo là tháng 1, tính lần lượt đến tháng mất, gặp cung nào thì cung đó là cung tháng.

                  – Từ cung tháng, tính cung tiếp theo là ngày 1, tính lần lượt đến ngày mất, gặp cung nào thì tính cung đó là cung ngày.

                  – Từ cung ngày, tính cung tiếp theo là giờ tý, tính lần lượt đến giờ mất, gặp cung nào thì tính cung đó là cung giờ.

                  Nếu các cung tuổi, tháng, ngày, giờ gặp các cung:

                  – Dần – Thân – Tị – Hợi thì là gặp cung Trùng Tang

                  – Tý – Ngọ – Mão – Dậu thì là gặp cung Thiên Di

                  – Thìn – Tuất – Sửu – Mùi thì là gặp cung Nhập Mộ.

                  Chỉ cần gặp được một cung nhập mộ là coi như yên lành, không cần phải làm lẽ trấn trùng tang.

                  Ví dụ: Tính cho cụ ông mất giờ Tý, ngày 3, tháng 3 thọ 83 tuổi.

                  Cụ ông Khởi từ cung Dần tính chiều thuận: 10 tuổi ở Dần, 20 tuổi ở Mão, 30 tuổi ở Thìn… 80 tuổi ở Dậu, đến tuổi lẻ 81 ở Tuất, 82 ở Hợi, 83 ở Tí. Vậy cung tuổi là cung Tý là cung Thiên Di.

                  Tính tiếp tháng 1 là Sửu, tháng 2 ở Dần, tháng 3 ở Mão, vậy cung tháng là Mão là cung Thiên Di.

                  Tính ngày mồng 1 là Thìn, ngày mồng 2 là Tị, mồng 3 là Ngọ, vậy cung ngày là Ngọ gặp Thiên Di.

                  Tính tiếp cho giờ, giờ tý tại Mùi, vậy cung giờ là cung Mùi được cung nhập mộ.

                  Như vậy cụ ông có 3 cung thiên di, 1 cung nhập mộ. Vậy là hợp với lẽ trời và đất.

                  Đây là bãng tính trùng tang

                  Tuổi người chết Năm chết Ngày chết Giờ chết Liệm, chôn, cải tang kỵ ngày Tháng chết

                  Trùng Tang còn là ngày phục nhật: tháng 1 ngày Giáp tháng 2 ngày Ất tháng 3 ngày Mậu tháng 4 ngày Bính tháng 5 ngày Đinh thnấg ngày Kỷ tháng 7 ngày Canh tháng 8 ngày Tân tháng 9 ngày Mậu tháng 10 ngày Nhâm tháng 11 ngày Quý tháng 12 ngày Kỷ

                  Tính Trùng tang như chúng tôi vừa trình bày là cách tính được nhà Phật hay dùng, Chùa Liên Phái (Quận Hai Bà trưng Hà Nội) hoặc chùa Liên phái ở Bắc Ninh là hai chùa chuyên xử lý vấn đề này. Trong đó chùa ở Bắc Ninh thì thấy bảo là chứa hàng trăm ngàn vong bị giữ lại đó do bị chết Trùng.

                  Thực tế có trùng tang hay không? Bản chất nó là gì? Tác hại đến đâu … toàn chỉ được nghe kể lại thôi, chưa được trực tiếp chứng kiến bao giờ, và có lẽ hơi khó chứng kiến, vì chẳng nhà nào dám làm ẩu khi thầy phán bị trùng tang.

                  Đám tang được coi là đẹp khi tất cả được chữ Nhập Mộ, ý nói người chết đã mồ yên mả đẹp, linh hồn được siêu thoát … nên không có gì phiền não ngưòi còn sống.

                  Nhập mộ là thế nào: Là cả xác cả hồn đều chui tọt vào Mộ. Đừng có Xác thì trong Mộ mà Hồn lại lang bang ở ngoài không nơi không chốn nương nhờ.

                  Đã nói đến Nhập Mộ, tức là động chạm đến vòng Tràng Sinh. Vì Tràng Sinh thì gồm 12 giai đoạn là Tràng Sinh (cái mới mới sinh ra trên cơ sở cái cũ vừa chết đi) Mộc Dục (được tắm rửa, còn yếu ớt) Quan đới (được đi học, hoặc khi chết thì bắt đầu tẩm liệm) Lâm Quan (Vào việc/ Vào áo quan) Đế vượng (Lúc cực thịnh trong đời/Khi kèn trống nổi lên) Suy (Khi bước qua bên kia của danh vọng, của tuổi trẻ/ Khi người nhà thuơng nhớ cố nhân) Bệnh (Hết tuổi làm việc về hưu thì ngã bệnh) Tử (Chết, Hồn lìa khỏi Xác) Mộ (Cả hồn cả xác đều nhập vào trong lòng đất) Tuyệt (Mọi thứ tan tành, Xương ra xương, thịt ra thịt) Thai (Hồn đi đầu thai nơi khác) Dưỡng (9 tháng 10 ngày dưỡng dục thai nhi) … Trong 12 thời nói trên, khi ứng dụng cho tang ma, người ta quan trọng nhất các kỳ: Mộc dục = Tắm rửa cho người chết trước khi tẩm liệm; Quan đới/Lâm Quan: Tẩm liệm, bỏ vào quan tài mà phát tang và cuối cùng là Mộ = đưa người chết về nhà mới của họ.

                  Dựa vào việc xác định ngày, giờ nào hợp với Kỳ nào của vòng tràng sinh, có thể định giờ tẩm liệm, phát tang, chôn cất cho phù hợp.

                  Vài dòng liên tưởng, mong các bạn tiếp tục bổ sung.

                  Trong phép tính trùng tang ta phải biết tiên lượng: trùng ngày nặng nhất – Trùng thất xa; trùng tháng nặng nhì – Trùng tam xa; trùng giờ nặng 3 – trùng nhị xa; trùng năm nhẹ nhất – trùng nhất xa.

                  Ngoài ra cứ chết vào năm tháng ngày giờ Dần, thân, tỵ, hợi thì cũng bị trùng tang theo phương đồ trên. Năm tính năm, ngày tính ngày… Còn phải xem người chết chôn vào ngày nào nữa để tính, nếu chết chôn:

                  – Tháng giêng: ngày 7-19

                  – Tháng 2, tháng ba: ngày 6-18-30.

                  – Tháng tư :ngày 4-16-28.

                  – Tháng năm, tháng sáu: ngày 3-15-27.

                  – Tháng bảy: ngày 1-12-25.

                  – Tháng tám, tháng chín: ngày 12-24.

                  – Tháng mười: ngày 10-22.

                  – Tháng 11- tháng chạp: ngày 9 -21.

                  Nếu người chết mà chôn vào các ngày trên thì trong vòng ba tháng hoặc là ba năm sẽ có cha mẹ, con cháu, anh em ruột chết nữa. Bài này khá linh nghiệm xin nhớ kỹ. Khi thấy bị phạm những điều trên rồi, gia chủ nên tìm thầy giải hạn ngay, nên tìm các thầy tu, cao tăng, ngoài đời thường rất hiếm. Chớ coi thường.

                  LIÊN QUAN GIỮA CÁC TUỔI CẦN TRÁNH KHI PHẠM TRÙNG TANG.

                  Trùng tang Nhất xa – Ba người chết theo.

                  Trùng tang Nhị xa – Năm người chết theo

                  Trùng tang Tam xa – Bẩy người chết theo.

                  Sinh năm Kỷ Dậu nên bị Phục tang tại Địa hộ Tỵ – Tam xa.

                  Phục – Sự quay trở lại của Vong hồn.

                  Trùng – Sự nhập của Vong hồn vào người sống, bắt đi theo.

                  Trùng tang ngày là nặng nhất.

                  Trùng tang Tháng là nặng nhì.

                  Trùng tang Giờ là nặng thứ ba.

                  Trùng tang Năm là nhẹ nhất.

                  KIÊNG KỴ: Người nhà kiêng người Tam hợp tuổi, kiêng tuổi xung, kiêng tuổi Hình với Vong mệnh.

                  Kỵ Long – Hổ – Kê – Xà tứ sinh Nhân ngoại (Người khách các tuổi Thìn – Dần – Dậu – Tỵ không được có mặt khi khâm liệm).

                  Kiêng người có cung phi Bát trạch xung khắc với Vong mệnh.

                  Kiêng khóc thành tiếng khi đang liệm.

                  Cách Tính Trùng Tang

                  Thư Mục Thực Hành Tâm Linh

                  Dân gian Á Đông xưa rất quan tâm đến nghi thức an táng cho người vừa mới mất. Người xưa cho rằng người ruột thịt vừa mất có ảnh hưởng tốt, xấu tới những người thân cùng huyết thống đang sống. Do vậy, họ có nhiều nghi thức tế lễ, an táng cho người mới ra đi vào cõi vĩnh hằng. Một trong những nghi lễ quan trọng hàng đầu đó là tính xem tuổi, tháng, ngày, giờ của người mất có hợp với quy luật cuộc đời của “chính họ” hay không. Dựa vào tuổi của người mất và ngày, tháng, giờ mất của họ để tính xem: người đó có được “nhập mộ” hay gặp phải “Thiên di”, “Trùng Tang”.

                  – “Nhập mộ”: là người mất “ra đi” và được “nằm xuống” vĩnh viễn , không còn vương vấn trần ai. Thể hiện sự an lành, yên nghỉ. Chỉ cần một “nhập mộ” của tuổi hoặc tháng, ngày giờ là được coi là tốt.

                  – “Thiên di”: là dấu hiệu ra đi do “trời định”, người mất lúc đó được trời đưa đi. Sự ra đi này nằm ngoài mong muốn của người mất, nhưng cũng là hợp với lẽ trời.

                  – “Trùng Tang”: là dấu hiệu ra đi không hợp số phận, không dứt khoát, có nhiều ảnh hưởng tới người ở lại. Theo quan niệm xưa, nếu gặp phải Trùng Tang mà không có “nhập mộ” nào thì cần phải mời người có kinh nghiệm làm lễ “trấn trùng tang”.

                  Cách Tính Trùng Tang Theo Lòng Bàn Tay Như Sau :

                  Trước tiên dù là Nam hay Nữ mất cũng cần phải biết rõ chết vào Ngày, Tháng, Năm nào và lúc chết bao nhiêu tuổi ( tính theo âm lịch ). Sau đó nếu là Nam thì tính bắt đầu từ Dần ( Theo chiều kim đồng hồ ) Nữ thì bắt đầu tính từ Thân ( ngược chiều kim đồng hồ ).Tính theo thứ tự Tuổi Mất, Tháng Mất, Ngày Mất, Giờ Mất.

                  – Cứ 10 năm thì được tính là 1 cung, các tuổi lẻ thì mỗi tuổi là 1 cung. Cứ thế xoay theo chiều cho đến số tuổi qua đời. VD : Nam mất năm 32 tuổi

                  Năm : Đàn ông bấm từ cung Dần là 10, Mão 20, Thìn 30, Tị 31, Ngọ 32. dừng tại đó xem cung Ngọ thuộc cung nào để biết là Năm ra sao

                  -Tiếp đó bấm đến Tháng mất : VD mất tháng 2 thì bấm tiếp là Mùi 1, Thân 2 dừng tại đó xem cung Thân thuộc cung nào để biết Tháng ra sao.

                  – Tiếp đó bấm đến Ngày mất : VD mất Ngày 6 thì bấm tiếp là Dậu 1, Tuất 2, Hợi 3, Tý 4, Sửu 5, Dần 6 dừng tại đó xem cung Dần thuộc cung nào để biết Ngày đó ra sao.

                  – Tiếp đó bấm đến Giờ mất : VD mất 3h sáng ( Giờ Dần ) thì bấm tiếp là Mão ( tý ) Thìn ( sửu ) Tị ( Dần ) dừng tại đó xem Tị rơi vào cung nào để biết Giờ đó ra sao.

                  Nếu rơi vào các cung

                  Thìn, Tuất, Sửu, Mùi là Nhập Mộ.( Rất tốt )

                  Tý, Ngọ, Mão, Dậu là Thiên Di. ( Không tốt )

                  Dần, Thân, Tị, Hợi là Trùng Tang ( Rất xấu )

                  Ví dụ Nam 74 tuổi, chết tháng 4, ngày 3, giờ Mão thì ta bấm như sau:

                  Bấm Năm : bắt đầu từ cung Dần là 10, Mão 20, Thìn 30, Tị 40, Ngọ 50, Mùi 60, Thân 70, Dậu 71, Tuất 72, Hợi 73, Tý 74. vậy là chết 74 tuổi vào Cung Tý. so với bảng tính ở trên Cung Tý là Thiên Di vậy là Năm Thiên Di.

                  Bấm Tháng : bắt đầu từ tháng 1 vào cung Sửu, tháng 2 dần, tháng 3 Mão, tháng 4 Thìn.vậy là chết tháng 4 vào cung Thìn. So với bảng tính ở trên là Nhập Mộ vậy là Tháng Nhập Mộ.

                  Bấm Ngày : Bắt đầu từ mồng 1 vào cung Tị, mồng 2 Ngọ, mồng 3 Mùi, vậy là chết ngày mồng 3 vào cung Mùi, so với bảng tính ở trên là Nhập Mộ vậy là Ngày Nhập Mộ.

                  Bấm Giờ : Bắt đầu từ giờ Tý vào cung Thân, giờ sửu (Dậu ), Giờ Dần ( Tuất ), giờ Mão ( Hợi ) vậy là chết vào giờ Mão rơi vào cung Hợi, so với bảng tính ở trên là Trùng Tang vậy là Giờ Trùng Tang.

                  Tổng Kết là : Năm: Thiên Di.

                  Tháng : Nhập Mộ.

                  Ngày : Trùng Tang.

                  Giờ : Trùng Tang.

                  Đối với Nữ thì tính ngược lại theo chiều Kim đồng hồ bắt đầu từ Thân.

                  Cách Tính trùng tang theo bảng vẽ sau tương tự như tính bằng tay vậy.

                  I.-COI GIỜ LIỆM

                  A. GIỜ TRÙNG TANG LIÊN TÁNG (xấu, nên tránh).

                  – Tuổi: Thân, Tý, Thìn chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Tỵ là phạm trùng tang liên táng.

                  – Tuổi: Dần, Ngọ, Tuất chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Hợi là phạm trùng tang liên táng.

                  – Tuổi: Tỵ, Dậu, Sữu chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Dần là phạm trùng tang liên táng.

                  – Tuổi: Hợi, Mẹo, Mùi chết nhằm: năm, tháng, ngày, giờ Thân là phạm trùng tang liên táng.

                  – Liệm, chôn cũng tránh mấy giờ đó mà cải táng (đào lên đem chôn chỗ khác) cũng phải tránh những ngày, giờ trùng tang liên táng.

                  B. LIỆM CHÔN KỴ NGƯỜI CÒN SỐNG

                  Thí dụ: Trưởng nam tuổi Dần, dâu lớn tuổi Mẹo, cháu lớn tuổi Thìn thì kỵ ba giờ: Dần, Mẹo, Thìn, nên dùng: Ngọ, Mùi, Dậu thì tốt.

                  Nếu người chết không con trai, dâu, cháu nội thì tránh tuổi anh lớn và tuổi cha mẹ của người chết.

                  Cẩn thận, nên xem ngày đó kỵ tuổi nào, nhắc thân nhân có tuổi đó tránh mặt lúc tẩn.

                  Lúc nào cũng phải tránh giờ: Dần, Thân, Tỵ, Hợi.

                  Nên lựa giờ Nguyệt tiên mà những giờ tốt trong bài đó.

                  C. TÙY NGÀY LỰA GIỜ TỐT ĐỂ TẨN LIỆM

                  Ngày Tý nên dùng giờ Giáp, Canh.

                  Ngày Sửu nên dùng giờ Ât, Tân.

                  Ngày Dần nên dùng giờ Đinh, Quý.

                  Ngày Mẹo nên dùng giờ Bính, Nhâm.

                  Ngày Thìn nên dùng giờ Giáp, Đinh.

                  Ngày Tỵ nên dùng giờ Ât, Canh.

                  Ngày Ngọ nên dùng giờ Đinh, Quý.

                  Ngày Mùi nên dùng giờ Ât, Tân.

                  Ngày Thân nên dùng giờ Giáp, Quý.

                  Ngày Dậu nên dùng giờ Đinh, Nhâm.

                  Ngày Tuất nên dùng giờ Canh, Nhâm.

                  Ngày Hợi nên dùng giờ Ât, Tân.

                  1. Giáp, Kỷ: khởi Giáp Tý (1)

                  2. Ất, Canh: Bính tác sơ (2)

                  3. Bính, Tân: Mậu Tý khởi

                  4. Đinh, Nhâm: Canh Tý cư

                  5. Mậu, Quý: Hà phương mích? (3)

                  Nhâm Tý khởi vi đầu.

                  CHÚ THÍCH:

                  (1) Ngày Giáp, ngày Kỷ thì giờ Tý ngày đó tính là giờ Giáp Tý, kế là Ất Sửu, Bính Dần …

                  (2) Ngày Ất, ngày Canh thì giờ Tý của những ngày đó là Bính Tý … cho đến …

                  (3) Ngày Mậu, ngày Quý thì giờ Tý của các ngày đó là giờ Nhâm Tý, rồi đến Quý Sửu vân vân … tính tới …

                  D. TÍNH NGÀY NGUYỆT TIÊN

                  (1) Tý, Ngọ gia Tý, Mẹo, Dậu gia Ngọ,

                  Thìn, Tuất gia Thân, Sửu, Mùi gia Dần,

                  Dần, Thân gia Thìn, Tỵ, Hợi gia Tuất.

                  (thuộc lòng)

                  (2) NGUYỆT TIÊN, THIÊN ĐỨC, Thiên sát, THIÊN KHAI, Tòa thần, Thiên nhạc, NHỰT TIÊN, Địa sát, THIÊN QUÝ, MINH CHUYỂN, Thiên hình, Thiên tụng. (thuộc lòng)

                  Giờ tốt thì chữ IN HOA.

                  Thí dụ: Ngày Tý hoặc ngày Ngọ mà ta muốn dùng giờ Mẹo, coi giờ Nguyệt tiên tốt xấu. Ta thấy ở (1) có câu “Tý, Ngọ gia Tý”, vậy ngày Tý hoặc ngày Ngọ khởi hô Nguyệt tiên tại cung Tý trên bàn tay, thuận hành đến cung Mẹo (cũng là giờ Mẹo) nhằm THIÊN KHAI, giờ Mẹo gặp Thiên khai là giờ tốt.

                  Hay: ngày Thân giờ Tuất, ta thấy ở (1) có câu :”Dần, Thân gia Thìn”, vậy ngày Thân khởi tại cung Thìn, ta theo (2) hô Nguyệt tiên tại cung Thìn, thuận hành đến cung Tuất nhằm NHỰT TIÊN, giờ Tuất gặp Nhựt tiên là giờ tốt.

                  II. LỰA NGÀY GIỜ AN TÁNG (CHÔN)

                  Tùy theo tháng mà chọn ngày tốt, lại phải tránh thêm những ngày: Trùng tang, Trùng phục, Tam tang, Thọ tử, Sát chủ, Sát chủ âm, Nguyệt phá, Thiên tặc, Thiên can, Hà khôi, Âm thố, Dương thố, Thố cấm.

                  Tháng giêng: 5 Dậu (5 Can=Ất, Đinh, Kỷ, Tân, Quý : Dậu). Ất, Tân, Đinh, Quý: Mẹo. Bính,Nhâm: Ngọ.

                  Tháng hai: Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần. Đinh, Kỷ, Quý: Mùi. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân.

                  Tháng ba: Bính, Canh, Nhâm: Tý. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Ngọ. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Ất, Đinh, Quý, Tân: Dậu.

                  Tháng tư: 5 Sửu, 5 Dậu. Giáp, Mậu, Canh: Ngọ.

                  Tháng năm: 5 Dần. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân.

                  Tháng sáu: Giáp, Canh, Nhâm:Ngọ. Giáp, Bính, Canh: Thân. Kỷ, Đinh, Tân, Quý:Dậu. Ất, Tân, Quý: Mẹo.

                  Tháng bảy: Bính, Nhâm: Tý. Nhâm Thìn. Bính, Mậu, Nhâm: Thân. 5 Dậu.

                  Tháng tám: Đinh, Quý: Sửu. 5 Dần. Nhâm Thìn. Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Thân. Đinh, Kỷ, Quý:Dậu.

                  Tháng chín: Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần, Ngọ. Kỷ, Đinh, Tân, Quý: Dậu.

                  Tháng mười: Giáp Thìn, Canh Tý. Giáp, Mậu, Canh: Ngọ. Kỷ, Tân, Quý: Mùi. 5 Mẹo.

                  Tháng mười một: 5 Dậu, 5 Thân. Giáp, Mậu, Canh, Nhâm: Thìn. Nhâm Tý.

                  Tháng mười hai: Giáp, Bính, Canh, Nhâm: Dần, Thân, Ngọ. Ất, Đinh, Canh, Quý: Dậu.

                  – Ngày chôn tốt (an táng kiết nhựt):

                  Nhâm Thân, Quý Dậu, Nhâm Ngọ, Giáp Thân, Ất Dậu, Bính Thân, Đinh Dậu, Nhâm Dần, Bính Ngọ, Kỷ Dậu, Canh Thân, Tân Dậu (là rất tốt).

                  Canh Ngọ, Nhâm Thìn, Giáp Thìn, Ất Tỵ, Giáp Dần, Bính Thìn, Canh Dần (là tốt vừa).

                  Cẩn thận, nên xem ngày đó kỵ tuổi nào, nhắc thân nhân có tuổi đó tránh mặt lúc hạ huyệt.

                  – Nên chọn những ngày, giờ tốt trong bài Huỳnh đạo mà an táng, nên nhớ tránh giờ Tỵ, Hợi và tuổi của tang chủ như đã nói ở phần “COI GIỜ LIỆM”, còn những tuổi bị THÁI TUẾ ÁP TẾ CHỦ thì khi hạ huyệt mới dặn mấy người tuổi đó tránh đi chỗ khác (ở trong lịch Tàu mỗi năm có ghi sẵn 6 tuổi Thái tuế áp tế chủ, tức là những tuổi phạm Thái Tuế, xung Thái Tuế , bàng Thái Tuế v.v…).

                  *CÁCH CHIẾM GIỜ HOÀNG ĐẠO ĐẠI KIẾT

                  Ta nên thuộc hai câu sau đây:

                  Bao giờ gặp CHUỘT đuổi TRÂU

                  THỔ NGŨ KÊ HẦU trăm việc đều nên .

                  Hai câu trên là nói 6 giờ đại kiết: CHUỘT là giờ Tý, TRÂU là giờ Sửu, THỐ là giờ Mẹo, NGŨ là giờ Ngọ, KÊ là giờ Dậu, HẦU là giờ Thân. Trong 12 giờ coi gặp 6 giờ này là giờ ĐẠI KIẾT.

                  CÁCH COI: Ngày đầu khởi giờ đó, ngày cách tiết nghịch hành, giờ liên tiết thuận hành. Khởi ngày Tý tại cung Tý trên bàn tay.

                  Thí dụ: Ngày Mẹo, giờ nào đại kiết?

                  Khởi ngay ngày Tý tại cung Tý nghịch hành lùi lại bỏ một cung: Sửu tại cung Tuất, Dần tại cung Thân, ngày Mẹo tại cung Ngọ. Ngày Mẹo tại Ngọ, ta khởi giờ Tý tại Ngọ thuận hành liên tiết, giờ Sửu tại Mùi, giờ Dần tại Thân, giờ Mẹo tại Dậu, giờ Thìn tại Tuất, giờ Tỵ tại Hợi, giờ Ngọ tại Tý, giờ Mùi tại Sửu, giờ Thân tại Dần, giờ Dậu tại Mẹo, giờ Tuất tại Thìn, giờ Hợi tại Tỵ. Ta nhận thấy 6 giờ: Ngọ, Mùi, Dậu, Tý, Dần, Mẹo đứng trên 6 cung: Tý, Sửu, Mẹo, Ngọ, Thân, Dậu là giờ ĐẠI KIẾT.

                  III. COI NGÀY XẢ TANG

                  Nên chọn những ngày:

                  Nhâm, Giáp, Bính, Canh, Mậu=Thân

                  Bính, Canh, Nhâm=Tý

                  Tân, Ất=Mẹo

                  Bính, Mậu=Ngọ.

                  Kỷ Dậu, Tân Dậu, Kỷ Mùi, Ất Mùi, Mậu Dần, Quý Sửu và những ngày trực Trừ.

                  Nên tránh những ngày: Thọ tử, Sát chủ, Trùng tang, trực Kiến, trực Phá.

                  Chú ý: tháng hai trực Trừ gặp Thọ tứ, tháng ba trực Trừ gặp Trùng tang, tháng năm, tháng tám trực Trừ gặp Tam tang, trong 4 tháng vừa kể trên gặp trực Trừ không dùng được.

                  *CHÚ Ý LỜI DẶN:

                  1. Khi dở lịch ra chọn ngày tốt, được Tam hạp, Lục hạp và tương sanh (hay tỳ hòa), ta lại phải dò trong “Đổng Công Tuyển Trạch Nhựt Yếu Lãm” (chữ LÃM có người đọc lầm ra chữ GIÁC) coi ngày ấy có tốt không?

                  Nếu như trong lịch và trong Đổng Công đều tốt cả thì dùng được đại kiết, còn trong lịch bình thường mà trong Đổng Công nói tốt thì dùng cũng được tốt, còn trong lịch nói tốt mà trong Đổng Công chê xấu thì chẳng nên dùng.

                  2. Tuy hai chỗ bảo tốt, nhưng phải dò lại trong bảng Tuyển nhựt coi có phạm Sát chủ, Thọ tử hay những ngày cấm kỵ nào khác không, nếu có thì cũng phải chừa (coi bảng Tuyển nhựt trích yếu ngoạt trung tuyển nhựt )

                  BẢNG TRA GIỜ ÂM LỊCH

                  (Theo múi giờ 7)

                  Tháng 11:đầu giờ Tý từ 23 giờ 10 phút đến 1 giờ 9 phút

                  đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 10 phút đến 13 giờ 9 phút

                  Tháng 12,10:đầu giờ Tý từ 23 giờ 20 phút đến 1 giờ 19 phút

                  đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 20 phút đến 13 giờ 19 phút

                  Tháng 1, 9:đầu giờ Tý từ 23 giờ 30 phút đến 1 giờ 29 phút

                  đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 30 phút đến 13 giờ 29 phút

                  Tháng 2, 8:đầu giờ Tý từ 23 giờ 40 phút đến 1 giờ 39 phút

                  đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 40 phút đến 13 giờ 39 phút

                  Tháng 3, 7:đầu giờ Tý từ 23 giờ 50 phút đến 1 giờ 49 phút

                  đầu giờ Ngọ từ 11 giờ 50 phút đến 13 giờ 49 phút

                  Tháng 4, 6:đầu giờ Tý từ 0 giờ 00 phút đến 1 giờ 59 phút

                  đầu giờ Ngọ từ 12 giờ 00 phút đến 13 giờ 59 phút

                  Tháng 5: đầu giờ Tý từ 0 giờ 10 phút đến 2 giờ 09 phút

                  đầu giờ Ngọ từ 12 giờ 10 phút đến 14 giờ 09 phút

                  Kính mong các bạn đọc thật kỹ, xét cho tường tận sự việc trong gia đình mình. Từ đó đưa ra kiến giải cho sự việc, không nên lợi dụng người thiếu hiểu biết để trục lợi. Những gì tôi viết lên đây là kiến thức khoa học nghiên cứu cả đời của tôi, chỉ mong giúp đỡ người đời tai qua nạn khỏi. Hướng về những điều tốt đẹp của cuộc sống.

                  NHỮNG VIỆC CẦN LÀM CHO NGƯỜI MỚI MẤT

                  ĐẠI SƯ ẤN QUANG KHAI THỊ BA ĐIỀU THIẾT YẾU LÚC LÂM CHUNG

                  Điều thứ nhất: Phải khéo khai thị an ủi, khiến cho bệnh nhân sắp mất sanh lòng chánh tín. Tha thiết khuyên bệnh nhân, buông bỏ tất cả, nhất tâm niệm Phật, nếu có dặn dò việc gì, bảo họ mau dặn dò, dặn dò xong, bảo họ không nên lo nghĩ chuyện khác, chỉ nghĩ đến ta sắp theo Phật sanh về cõi Cực Lạc, nhất tâm chí thành Niệm Phật, Ngài đích thân đến tiếp dẫn, liền được vãng sanh.

                  Điều thứ hai: Mọi người luân phiên niệm Phật, để hộ trì tịnh niệm cho bệnh nhân. Tâm lực của bệnh nhân yếu ớt, không thể liên tục niệm lâu dài, ngay trong lúc này phải nhờ người khác hộ niệm, mới được đắc lực. Nên biết rằng: Những người chịu giúp bệnh nhân tịnh niệm vãng sanh, cũng được quả báo người khác hộ niệm cho mình, đừng nói là chỉ vì cha mẹ mới hộ niệm như vậy, cho dù là người không quen biết cũng phải giúp họ hộ niệm, cũng là bồi dưỡng phước điền của mình, giúp cho một người thành tựu vãng sanh Tịnh Độ, tức là giúp cho một người thành tựu làm Phật, hộ niệm nên chia thành từng nhóm luân phiên niệm Phật, pháp khí chỉ nên dùng một cái Khánh, niệm Phật không mau nên chậm, từng chữ rõ ràng.

                  Điều thứ ba: Tuyệt đối không nên dời động hay khóc lóc, e sợ làm hỏng việc. Bệnh nhân lúc sắp phân chia: Phàm, Thánh, Người, Quỷ, lúc đó chỉ niệm Phật cho thần thức của họ, không nên lau mình, thay quần áo, dời động, khóc lóc, để cho họ tự nhiên ngồi nằm, vì vậy có thuyết rằng: Đỉnh nóng sanh cõi Phật, nơi mắt sanh cõi trời, ngực nóng sanh cõi người, bụng nóng sanh ngã quỷ, đầu gối đọa súc sanh, bàn chân xuống địa ngục. Lúc này mọi người nên khẩn thiết mà niệm Phật, không nên thăm dò hơi nóng của người lúc lâm chung, họ quyết định đới nghiệp vãng sanh.

                  Ta thấy người khác chết, tâm ta nóng như lửa,

                  Không phải nóng người khác, sẽ đến lượt ta đây.

                  Cố gắng thực hành để giúp đỡ thân nhân mình như sau:

                  1/ Khi người bệnh ra đi, tất cả các thành viên còn lại tập trung Niệm Phật, thay phiên nhau hướng về người mất mà niệm Phật, tối thiểu cũng phải được 8-12g.

                  2/ Quạt máy không được quạt thẳng vào thân thể của người lâm chung.

                  3/ Không được coi ngày, giờ tẩn niệm, không được gọi nhà quan ,đặt áo quan, dựng rạp, kê bàn ghế vv… khi chưa chấm dứt thời gian niệm Phật.

                  4/ Không nên thông báo cho người thân, bà con, bạn bè biết vội,để chánh gây động tâm đến người ra đi , động tâm đến người đang trợ niệm .

                  5/ Tuyệt đối không được khóc lóc, ôm, rửa , thay y phục, đụng chạm, di chuyển, người lâm chung.

                  6/ Không được bỏ (đặt) bất cứ vật gì vào miệng vào tay,vào túi áo, túi quần người lâm chung .

                  7/ Không được đặt nải chuối nên bụng người mất.

                  8/ Không được để cơm, trứng trên đầu giường theo tục lệ cũ.

                  9/ Không được nấu nướng , chiên, xào, có mùi cá, thịt, hành, tỏi ,hẹ … (Ngũ tân).

                  10/ Trong suốt 49 ngày, gia đình nên ăn chay, hồi hướng công đức cho người lâm chung là tốt nhất .

                  Điều QUAN TRỌNG và DUY NHẤT gia đình cần phải làm trong lúc này là : Giữ tâm thanh tịnh , tập trung niệm Phật cầu xin Đức Phật A Di Dà phóng quang tiếp dẫn người thân được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

                  Thân ái! Cư Sĩ Minh Phúc

                  CÁCH XEM SỐ ĐIỆN THOẠI TỐT HAY XẤU THEO PHƯƠNG PHÁP KINH DỊCH

                  Tôi viết bài này với chủ ý để hướng dẫn các bạn muốn tìm hiểu triết lý trong Kinh Dịch, tức vũ trụ quan, nhất là nhân sinh quan, cách xử thế trong Kinh Dịch mà tôi gọi là Đạo Dịch, Đạo của bậc chính nhân quân tử thời xưa.

                  Chỉ cần biết những số điện thoại của một người (kể cả số nhà, số xe, số CMT…) đã, đang và sẽ được sử dụng, có thể chiêm báo về công danh tài lộc, sức khỏe, vận hạn của người đó mà không cần biết tuổi và nhân dạng.

                  Tư vấn và hoá giải các dãy số có nội dung xấu:

                  Tư vấn chọn số điện thoại theo tuổi, nghề nghiệp và tâm nguyện.

                  Hóa giải các dãy số có nội dung xấu nhưng khó thay đổi (như số xe, số nhà…) bằng cách dịch Quẻ (chèn số, đổi quẻ xấu thành quẻ tốt)

                  Tư vấn năm kết hôn, năm sinh con theo Thập Bát cục Thông thiên khiếu và Vòng Tràng sinh, tư vấn ngày giờ mổ đẻ theo Tứ trụ.

                  Dự báo cho người xem Quẻ biết kết quả tôt – xấu của các dự tính, các công việc sẽ thực hiện, các quan hệ làm ăn, quan hệ tình cảm với đối tác… dựa vào cách bốc quẻ Thể – Dụng (quan hệ Chủ thể – Khách thể ).

                  Lập lá số Kinh Dịch :

                  Tự ngàn xưa, trong dân gian đã lưu truyền rất nhiều loại hình dự báo (nói cách khác là xem bói) như xem tướng mặt, xem chỉ tay, xem quả cau lá trầu, xem bài cào, xem tử vi…

                  Tử vi được coi là cách xem khoa học nhất vì dựa trên cơ sở tứ trụ (bốn mốc thời gian: năm, tháng, ngày, giờ sinh). Tuy nhiên nó vẫn có những hạn chế nhất định khi gặp các trường hợp người xem có cùng ngày tháng năm sinh, giờ sinh, thậm chí cùng zen di truyền (sinh đôi).

                  Bốc Dịch là loại hình dự báo khắc phục được hạn chế đó. Bằng cách xem này, không nhất thiết phải nhớ ngày giờ sinh, mà chỉ cần tâm thành, thực lòng muốn xem, cần xem, tập trung tinh lực khi gieo quẻ.

                  Lập lá số Kinh Dịch thực chất là lập bản dự báo chi tiết từng tuần lễ về công danh tài lộc, sức khoẻ, vận hạn,…trong một năm âm lịch theo các quẻ Dịch, không cần biết tuổi và nhân dạng, phân biệt được số mệnh của những người có năm tháng ngày giờ sinh giống nhau (thậm chí sinh đôi) bằng cách Bốc Dịch.

                  Yêu cầu quan trọng đối với người muốn lập lá số, hoặc xem quẻ:

                  Phải tâm thành, tập trung tinh lực.

                  “Tâm thành thì ứng nghiệm” thật ra không phải vấn đề mê tín. “Tâm thành” nói theo cách hiện nay là ” ý nghĩ phải tập trung”, tức là người đến hỏi việc phải tập trung sự chú ý vào việc muốn hỏi. Trong quá trình tập trung suy nghĩ, các thông tin cần biết được chuyển hóa thành dòng điện sinh học, nhờ tác dụng của từ trường thân thể mình, chuyển qua tay đến đồng tiền hoặc dụng cụ gieo Quẻ để có thể điều khiển được đông tiền sấp hay ngửa, hoặc để bốc đúng Quẻ mình cần. Nếu “ý niệm” và tinh lực của người xin quẻ không tập trung, suy nghĩ lung tung, dòng điện sinh học sẽ không đủ mạnh, thông tin bị nhiễu, không phản ánh chính xác vào tượng Quẻ, nên dự báo sẽ không chuẩn. Điều này cũng giống như ta luyện khí công, khi “ý nghĩ” không tập trung việc tập sẽ không đưa lại kết quả. Chính vì vậy mà người xưa đã có câu :” Phúc Chủ, Lộc Thầy “, người xem có tâm thành, bốc đúng Quẻ mình cần, thì Thầy phán mới chuẩn và linh nghiệm, vì khi này người Thầy chỉ dịch nghĩa của các Quẻ mà người xem bốc được mà thôi.

                  Người xưa còn nêu ra: không có việc, không bị ảnh hưởng, không động, không cần, không khác thường thì không xem quẻ… Tất cả những cái đó đều thuộc phạm trù “ý nghĩ” và là vấn đề nguyên tắc trong dự đoán.

                  TÌM HIỂU VỀ SIM KINH DỊCH

                  Sim Kinh Dịch là sim điện thoại mà các con số trong dãy được lựa chọn theo các quẻ Dịch mang nội dung tốt, chỉ ra định hướng vận động đến một đích khả quan, hợp với tuổi và đúng với tâm nguyện của người dùng.

                  2- Làm sao để biết sim điện thoại của mình tốt hay xấu theo quan điểm Kinh Dịch?

                  Dù vô tình hay cố ý chọn sim điện thoại theo quan điểm riêng, các con số trong dãy có thể mang nội dung tốt hoặc xâu. Người dùng có thể tư vấn trực tiếp hoặc điện thoại đến trung tâm để được dự báo thông qua các con số, không cần biết tuổi và nhân dạng.

                  3- Thay sim Kinh Dịch mang nội dung tốt có làm thay đổi được tình trạng hiện gặp của người sử dụng hay không?

                  Có thể hiểu một cách rất đơn giản là: nếu những con số trong các dãy số đang sử dụng chỉ hướng đi đến nội dung xấu, đến mục đích xấu, thì thay số sim nghĩa là thay đổi hướng đi đến mục đích tốt hơn, khả quan hơn nhằm cải tạo số phận, giảm nhẹ vận hạn mà theo số mệnh phải gánh chịu (giống như thay đổi hướng nhà, hướng cửa…trong phong thuỷ).

                  4- Sau khi sử dụng Sim Kinh Dịch liệu có còn gặp vận hạn nữa hay không?

                  Sự may mắn, hay rủi ro vận hạn của con người vốn dĩ do số mệnh áp đặt (số mệnh được quy định bởi năm tháng ngày giờ sinh và gien di truyền). Việc thay số điện thoại tốt cũng giống như thay hướng nhà, hướng cửa, hướng ban thờ, hướng bếp theo Phong Thuỷ. Không nên nghĩ rằng sau khi thay, trong cuộc đời sẽ không bao giờ gặp vận hạn nữa, vì trong các đại vận có năm tốt, năm xấu, trong các tiểu vận có tháng tốt, tháng xấu. Khi gặp năm tháng vận hạn, nhờ sự nỗ lực hướng thiện của bản thân, nhờ sử dụng hướng nhà tốt, số điện thoại tốt, …mà vận hạn được hạn chế hoặc giảm nhẹ.

                  Phải hiểu rằng nếu không có sự hóa giải đó thì vận hạn còn nặng hơn, nhiều hơn.

                  Sim Kinh Dịch được chọn như thế nào?

                  Sim Kinh Dịch được chọn theo tuổi, nghề nghiệp và tâm nguyện của người dùng.

                  Chỉ cần thay đổi một con số hoặc thay đôi vị trí các con số, trước hết đã làm thay đổi tổng của dãy số, sau đó làm thay đổi các quẻ Dịch, dẫn đến thay đổi nội dung, biến tốt thành xấu. Bởi vậy, không thể tuỳ tiện ghép những con số, những cặp số giống như dãy số của người khác.

                  Tại sao có người dùng số rất xấu theo Kinh Dịch mà vẫn phát công danh, tài lộc?

                  Những người dùng số rất xấu mà vẫn phát công danh hoặc tài lộc, trở thành những đại gia giàu có hoặc những người có quyền thế, chức sắc, nhưng đương nhiên họ phải gánh chịu cái xấu khác về sức khỏe hoặc tình duyên, ốm đau bệnh tật, vô sinh hoặc con cái hư hỏng…

                  Ngày Hắc Đạo: Cách Tính Và Ý Nghĩa

                  NGÀY HẮC ĐẠO:

                  Trước thềm năm mới 2023, Đỗ Việt Phương tôi xin gửi tới Quý bạn đọc của Trang Đặng Xuân Xuyến bài giới thiệu về 6 ngày Hắc Đạo, là những ngày xấu cho nhiều việc.

                  Kính chúc Quý bạn đọc Trang Đặng Xuân Xuyến cùng gia đình năm mới nhiều may mắn và thành công!

                  NGÀY BẠCH HỔ

                  Bạch Hổ vốn được biết đến là loài thú dũng mãnh, thường được khắc tượng để tạo nên vận thế an lành, tốt đẹp cho gia chủ. Tuy nhiên khi tính thời điểm hung cát thì ngày Bạch Hổ lại bị coi là ngày xấu.

                  Là một trong những ngày hung, Bạch Hổ Hắc đạo thường gắn liền với tính chất chinh chiến, sát phạt, ôn dịch.

                  Hiểu theo tín ngưỡng dân gian, Bạch Hổ chính là hổ trắng – loài vật vô cùng quý hiếm, biểu tượng cho sự dũng mãnh, mạnh nhất trong loài chúa sơn lâm và cũng là chúa tể của muôn loài, vạn vật. Đây cũng là một trong 4 linh vật quan trọng, được dân gian tạc tượng để trấn giữ phong thủy, cai quản đất đai. Trong đó Bạch Hổ phụ trách về mặt quân sự, vũ khí và nắm giữ phía Tây, đảm bảo cho vùng đất yên ổn. Tuy nhiên cũng vì sức mạnh đó mà Bạch Hổ thường gắn liền với sự giết chóc, tai họa.

                  Theo các nhà chiêm tinh học thời xưa, vào những ngày Bạch Hổ hắc đạo, nhân loại thường gặp nhiều chuyện rủi ro, tai họa, nhất là đối với những ai có phúc đức kém hoặc làm điều xấu.

                  Theo âm lịch và chi ngày, đó là những ngày dương, bắt đầu từ Ngọ vào tháng Giêng và lặp lại vào nửa năm sau.

                  Cụ thể như sau:

                  Tháng 1 và tháng 7: ngày Ngọ

                  Tháng 2 và tháng 8: ngày Thân

                  Tháng 3 và tháng 9: ngày Tuất

                  Tháng 4 và tháng 10: ngày Tý

                  Tháng 5 và tháng 11: ngày Dần

                  Tháng 6 và tháng 12 là ngày Thìn

                  Nhìn chung, Bạch Hổ Hắc đạo là ngày hung nên làm việc gì cũng xấu. Tuy nhiên theo Ngọc nạp thông thư, đây là ngày kỵ nhất cho việc mai táng.

                  Từ xưa, khi xác định phong thủy đất đai, thế “Bạch Hổ hàm thi” được coi là rất xấu, gắn liền với hình ảnh hổ trắng đang ngồi và ngậm xác hướng về phía mộ phần. Cũng theo đó, người ta cho rằng ngày Bạch Hổ Hắc đạo mà tiến hành an táng thì con cháu ở chốn dương gian sẽ gặp phải rất nhiều rắc rối, hiểm họa.

                  Thực tế, khi tiến hành việc mai táng, ai cũng mong người đã khuất được siêu thoát, yên ổn trở về miền đất cực lạc. Tuy nhiên ngày Bạch Hổ Hắc đạo lại có tính chất động, tạo ra trường khí xoáy sâu vào nỗi đau của cả kẻ ở người đi, khiến vong hồn không được yên tĩnh, khó lòng siêu thoát. Nếu trước khi mất vẫn còn những điều chưa thỏa đáng, ôm mối hận hay vương vấn, suy tư thì linh hồn lúc này bị đánh động, còn mang nỗi lưu luyến dương gian, khiến cuộc sống người trần không được yên ổn.

                  Để hiểu vì sao ngày Chu Tước hắc đạo được coi là không tốt, cần biết được ý nghĩa cụ thể của ngày đó.

                  Trong quan điểm phong thủy, “chu tước” chỉ loài chim sẻ đỏ – một trong những linh vật có sức mạnh kiểm soát ánh sáng và hơi ấm của đất trời, rất quan trọng đối với sự sống muôn loài. Đây cũng là hung thần có thể gây ảnh hưởng không tốt, giáng tai họa khi đi qua vạn vật, nhất là với kẻ ác, điều xấu.

                  Do đó vào những ngày mà mặt trời được thần linh đi kèm bảo hộ cho mặt trời, người ta thường tránh tiến hành công việc đại sự để tránh rủi ro, xui xẻo.

                  Như vậy ta có Chu Tước hắc đạo bao gồm những ngày sau:

                  – Trong tháng 1 và tháng 7: ngày Mão

                  – Trong tháng 2 và tháng 8: ngày Tỵ

                  – Trong tháng 3 và tháng 9: ngày Mùi

                  – Trong tháng 4 và tháng 10: ngày Dậu

                  – Trong tháng 5 và tháng 11: ngày Hợi

                  – Trong tháng 6 và tháng 12: ngày Sửu

                  Ngoài ra Chu tước còn có đặc điểm là nóng nảy, vội vàng, xung đột, dễ gây mất lòng, trong khi đó việc kinh doanh đòi hỏi sự khéo léo, mềm mỏng. Do đó công ty, doanh nghiệp hay cửa hàng có thể bị thiệt hại về tài vận vào ngày có năng lượng của vị thần sát trên chi phối. Điều này cũng đúng đối với việc dọn vào nhà mới.

                  Bên cạnh đó, trong ngày Chu Tước hắc đạo, người ta còn kiêng kỵ làm những việc lớn như mùa nhà, tậu xe, cưới hỏi, xin việc, nhậm chức… Vì vậy nếu đang lên kế hoạch cho tương lai, bạn nên tra cứu ngày giờ hoàng đạo, tránh những ngày hắc đạo khi sắp xếp tiến hành những công việc hay sự kiện quan trọng.

                  Được xem là thời điểm mang đến những rủi ro và bất lợi khó tránh, Câu Trần luôn là ngày xấu khiến nhiều người phải e dè. Vậy ý nghĩa của ngày đó ra sao, những công việc nào cần lưu ý?

                  Để nắm được những thông tin trên, mời các bạn tìm hiểu trong bài viết sau đây

                  Từ rất xa xưa, các vị học giả đã rất quan tâm tới quy luật vũ trụ. Thông qua việc quan sát thiên văn, các hiện tượng tự nhiên và sự vận hành của sao chiếu, họ đưa ra những học thuyết để ứng dụng vào bộ môn khoa học dự đoán cho thời vận, số mệnh của con người. Trong đó có quan điểm về hoàng đạo – hắc đạo.

                  Đây là phương pháp dựa trên sự chuyển động của mặt trời theo hướng từ Tây sang Đông, bao gồm 12 cung ứng với vị trí các sao chiếu, qua đó tính lịch phục vụ cho dự đoán thời tiết và nông nghiệp. Dần dần, từ 12 cung đó được chia thành 2 phần cân bằng nhau, gồm Hoàng đạo và Hắc đạo, gắn liền với 12 vị thần và 12 tính chất cát hung riêng biệt.

                  Câu Trần ở đây chỉ tên 1 trong 6 vị thần Hắc đạo (gồm: Thiên Hình, Bạch Hổ, Chu Tước, Thiên Lao, Câu Trần và Nguyên Vu). Theo đó, vào những ngày có các nhân vật kể trên chủ trì, rất nhiều công việc trở nên bất lợi, người đời dễ gặp phải hiểm họa, thiên tai.

                  Riêng với những ngày Câu Trần hắc đạo, những điềm hung chủ về chuyện vợ chồng chia ly, làm ăn khó khăn, gặp nhiều rắc rối trong công việc.

                  Ngày Câu Trần hắc đạo khác nhau ở mỗi tháng âm lịch và được tính theo địa chi.

                  Cụ thể, đó là những ngày sau:

                  Tháng Giêng và tháng 7: Câu trần hắc đạo ở ngày Hợi

                  Tháng 2 và tháng 8: Câu trần hắc đạo ở ngày Sửu

                  Tháng 3 và tháng 9: Câu trần hắc đạo ở ngày Mão

                  Tháng 4 và tháng 10: Câu trần hắc đạo ở ngày Tỵ

                  Tháng 5 và tháng 11: Câu trần hắc đạo ở ngày Mùi

                  Tháng 6 và tháng Chạp: Câu trần hắc đạo ở ngày Dậu

                  Như vậy quý bạn có thể yên tâm rằng Câu Trần sẽ không rơi vào các cung Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất.

                  Những việc xấu, điều kỵ trong ngày Câu Trần hắc đạo tương ứng với điển tích về nhân vật. Theo đó, đây là vị hung thần giữ chức Đại tướng, có khả năng gọi mây gió tạo ra mưa, người đầy sát khí và đầy uy quyền. Đặc điểm của ngài là rất khó hài lòng, ưa tranh chấp, cãi vã, gắn với những mâu thuẫn dây dưa kéo dài.

                  Do đó đối với ngày Câu trận hắc đạo, người ta thường kỵ các việc sau:

                  Tốt nhất là không khởi tạo, xây nhà, động thổ, nhập trạch, khai thị, tu tạo, tế tự, tài chủng, khai trì, xuất hỏa: bởi tiến hành vào ngày Câu Trần hắc đạo, nếu không chu đáo hay cẩn thận thì rất dễ phạm phải các thế lực âm, bị tiểu nhân quấy nhiễu, ảnh hưởng không nhỏ tới cuộc sống sau này.

                  Cần trọng nếu muốn phẫu thuật thẩm mỹ hay lấy thuốc chữa bệnh, bởi đây là thời điểm bất lợi cho sức khỏe, dễ gặp tai nạn, biến chứng kéo dài. Như vậy có thể thấy rằng Câu Trần hắc đạo là ngày xấu với nhiều việc.

                  Do đó trước những sự kiện quan trọng, bạn cần đặc biệt cẩn trọng, xem xét kỹ lưỡng liệu việc đó có phạm phải ngày hắc đạo hay không, từ đó tính đến khả năng dời lịch, né tránh để chờ thời cơ khác.

                  Từ xưa tới nay người dân Việt đã luôn có truyền thống chọn ngày tốt trước khi tiến hành những công việc trọng đại. Có nhiều kiến thức để lựa chọn ngày đẹp, phổ biến nhất là dựa theo ngày Hoàng đạo là ngày tốt, ngày Hắc Đạo là ngày xấu cần tránh làm việc lớn. Những ngày có sao xấu chiếu bởi các hung thần đi theo hộ vệ Mặt trời được gọi là ngày Thiên Lao

                  Thiên Lao hắc đạo trước tiên được hiểu là một ngày xấu làm việc gì cũng không được thuận lợi, như ý. Đây là ngày mà Mặt trời tạo ra những dòng trường khí, những năng lượng tiêu cực và có ảnh hưởng xấu tới sức khỏe, tinh thần cũng như vận may của con người.

                  Trong ngày này làm việc gì cũng gặp khó khăn, bất lợi, dễ xảy ra tranh cãi, bất hòa hay vướng vào kiện tụng, pháp lý.

                  Ngày Thiên Lao hắc đạo khác nhau ở mỗi tháng âm lịch và được tính theo địa chi.

                  Cụ thể, đó là những ngày sau:

                  Tháng 1, ngày Thiên Lao là ngày Thân

                  Tháng 2 ngày Thiên Lao là ngày Tuất

                  Tháng 3 ngày Thiên Lao là ngày Tý

                  Tháng 4 ngày Thiên Lao là ngày Dần

                  Tháng 5 ngày Thiên Lao là ngày Thìn

                  Tháng 6 ngày Thiên Lao là ngày Ngọ

                  Tháng 7 ngày Thiên Lao là ngày Thân

                  Tháng 8 ngày Thiên Lao là ngày Tuất

                  Tháng 9 ngày Thiên Lao là ngày Tý

                  Tháng 10 ngày Thiên Lao là ngày Dần

                  Tháng 11 ngày Thiên Lao là ngày Thìn

                  Tháng 12 ngày Thiên Lao là ngày Ngọ

                  Nếu thực hiện những việc này trong ngày Thiên Lao hắc đạo dễ xảy ra tai nạn ảnh hưởng tính mạng tới người thực hiện. Xuất hành gặp kẻ tiểu nhân, động thổ đào ao dễ gặp nhiều tranh chấp, kiện tụng. Bên cạnh đó chất lượng công trình cũng sẽ bị ảnh hưởng, các thành viên trong gia đình dễ bất hòa, nguy cơ ly tán.

                  Nếu về nhà mới vào ngày này mọi việc sẽ gặp nhiều khó khăn, sức khỏe của mọi thành viên trong gia đình bị ảnh hưởng, cuộc sống về sau này. Còn khi chữa bệnh sẽ khiến bệnh tật không những không thuyên giảm mà còn thêm nặng hơn. Vào ngày Thiên Lao hắc đạo mà bạn đi làm chuồng chăn nuôi súc vật sẽ khiến công trình bị ảnh hưởng chất lượng, thi công chậm trễ. Hơn nữa việc làm này còn làm ảnh hưởng tới chính vật nuôi, chúng sẽ dễ gặp phải bệnh tật khó chữa.

                  Xấu nhập trạch, nhập phòng, hôn sự:

                  Bạn cần tránh làm những công việc này trong ngày Hắc đạo bởi chắc chắn bạn làm việc gì cũng sẽ gặp nhiều bất lợi, rủi ro. Đặc biệt nếu nhập phòng, hay tổ chức hôn sự vào ngày này sẽ dẫn tới chuyện vợ chồng không được như ý, sau này cuộc sống dễ xảy ra bất hòa, tranh cãi thậm chí là tới nguy cơ ly hôn cao.

                  Như vậy có thể khẳng định rằng ngày Thiên Lao hắc đạo là ngày xấu. Mỗi tháng sẽ có những ngày Thiên lao hắc đạo khác nhau. Bạn cần xác định những ngày này để tránh tiến hành những công việc trọng đại. Bạn nên tìm hiểu thêm những thông tin về ngày Hoàng Đạo để thực hiện giúp đón nhận nhiều tài lộc và may mắn.

                  Sao Thiên Hình trong bộ môn khoa học dự đoán cũng mang ý nghĩa tương tự, biểu tượng cho sự kiện tụng, tranh cãi. Ngoài ra đây còn là hung tinh mang tới năng lượng sát thương lớn, chủ về tai nạn cần phải phẫu thuật, mổ xẻ.

                  Theo ý nghĩa đó, ngày Thiên Hình hắc đạo được hiểu là thời điểm có nguồn năng lượng những ảnh hưởng xấu đối với mọi người. Đây là năng lượng tiêu cực có thể gây ra rủi ro va chạm, mâu thuẫn trong công việc hay vướng mắc với pháp luật.

                  Ngày Thiên Hình hắc đạo khác nhau ở mỗi tháng âm lịch và được tính theo địa chi.

                  Cụ thể, đó là những ngày sau:

                  – Ngày Dần của tháng giêng và tháng 7

                  – Ngày Thìn của tháng 2 và tháng 8

                  – Ngày Ngọ của tháng 3 và tháng 9

                  – Ngày Thân của tháng 4 và tháng 10

                  – Ngày Tuất của tháng 5 và tháng 11

                  – Ngày Tỵ của tháng 6 và tháng Chạp

                  Có rất nhiều công việc quan trọng cần phải tránh trong ngày Thiên Hình hắc đạo. Tuy nhiên, bạn cần đặc biệt lưu ý các công việc sau đây:

                  Như vậy có thể thấy rằng ngày Thiên Hình hắc đạo rất xấu cho nhiều việc khác nhau. Do đó trước các sự kiện quan trọng, bạn cần chú ý tránh những ngày kể trên để tránh gặp phải rủi ro không mong muốn.

                  Ngay từ cái tên, có thể thấy rằng đây nà một trong những ngày hắc đạo, tức là thời điểm có hung thần đi theo bảo vệ mặt trời, mang nguồn năng lượng xấu ảnh hưởng tiêu cức tới nhân gian.

                  Từ “nguyên” ở đây chỉ thuồng luồng – một loài quái vật hung dữ sinh sống ở dưới nước, vô cùng lớn mạnh và có khả năng gây ra nhiều tai họa, rủi ro cho người dân. Còn từ “vu” theo tiếng Hán chỉ năng lượng thần bí, siêu nhiên.

                  Như vậy có thể thấy rằng ý nghĩa ngày Nguyên Vu hắc đạo là những ngày xấu, làm việc gì cũng không thành, giống như có thuồng luồng phá hoại, reo rắc tai họa.

                  Tính theo âm lịch, ngày Nguyên Vu hắc đạo sẽ được tính như sau:

                  Ngày Nguyên Vu hắc đạo vốn là ngày xấu, tiến hành các việc trọng đại vào ngày này đều sẽ không thuận. Trong đó, xấu nhất là các việc sau đây:

                  Bên cạnh đó, quý bạn cũng nên tránh mua sắm vật dụng, sửa sang nhà cửa hay bắt đầu làm những việc quan trọng vào ngày Nguyên Vu hắc đạo để tránh gặp phải rủi ro không mong muốn.

                  của Trần Thiện Thanh, qua tiếng hát Tuấn Vũ:

                  Ngày Hoàng Đạo Là Gì? Cách Tính Ngày Hoàng Đạo Trong Tháng

                  Ngày hoàng đạo là gì?

                  Hoàng đạo hay còn gọi là Thiên hoàng đạo có nghĩa là quỹ đạo chuyển động của mặt trời trên bầu trời mà người cổ đại quan sát được. Qua quỹ đạo đó ta thấy đường đi của mặt trời trong một năm có những khoảng cách khác nhau và dùng quỹ đạo đó để phân định mùa hè và thời tiết. Thuyết nhị thập bát tú cũng bắt nguồn từ cung Hoàng đạo.

                  Các ngôi sao trên Hoàng đạo không bao hàm các ngôi sao tốt hay xấu. Nhưng theo tâm lý của người xưa: Mặt trời có nghĩa là Thần. Mặt trời là vật thể hữu hình, Thượng đế là vật vô hình.

                  Mọi việc, mọi sự, mọi phước hạnh trên thế gian này đều do toàn quyền Thiên Chúa quyết định. Ngày, tháng, năm, trên đường đi của Thần phải có các vị thần hộ mệnh, mỗi vị thần là một ngôi sao, các vị thần thiện ác, mỗi vị thần chuyên lo một việc do Thần giao phó.

                  Vì vậy trong 12 giờ có 12 Thần Sát, các Thần cùng luân phiên đi hàng ngày vào một ngày trong tháng. Đường thiện thần đi gọi là Hoàng đạo, đường tà thần đi gọi là Hắc đạo.

                  Ngày hoàng đạo là ngày mà thiện thần phát huy hết khả năng của mình để thực hiện những công việc mà thượng đế giao cho. Người ta tin rằng mọi việc bắt đầu từ ngày Hoàng đạo sẽ được các sao tốt chiếu rọi, giúp mọi việc tiến triển tốt đẹp, thuận lợi hơn. Đó cũng là lý do người Việt thường coi ngày lành tháng tốt để làm những việc quan trọng như cưới xin, ăn hỏi, xây nhà, tậu xe …

                  Ngày hắc đạo là gì?

                  Theo quan niệm dân gian, ngày hắc đạo là ngày mà tà ma tìm đến. Với sức mạnh to lớn, không ai có thể ngăn được ác thần hoành hành. Vì vậy, trong ngày hắc đạo, mọi người thường tránh làm những việc quan trọng như động thổ, xây nhà… nếu không sẽ gặp rắc rối và kết quả không được như ý muốn.

                  Cách tính ngày hoàng đạo trong tháng

                  Theo các nhà chiêm tinh học, ngày Hoàng đạo là ngày có nhiều cát tinh hội tụ. Do đó, chọn ngày hoàng đạo để khánh thành, xuất hành, cúng bái, an táng … sẽ khiến mọi việc trở nên thuận lợi hơn.

                  Cách tính như sau:

                  1. Tính ngày hoàng đạo theo tháng

                  Theo các nhà thuận số thì mỗi tháng đều có 4 ngày hoàng đạo. Do đó, khi chọn ngày hoàng đạo bạn có thể dựa vào những quy tắc như sau:

                  Tháng Giêng, tháng Bảy: Ngày Tý, Thìn, Tỵ.

                  Tháng 2, 8: Ngày Dần, giờ Ngọ.

                  Tháng 3, 9: Ngày Thìn, Thân, Dậu.

                  Tháng 4, 10: Ngày Ngọ, giờ Tuất, giờ Hợi.

                  Tháng 5, 11: Ngày Bính Thân, giờ Sửu.

                  Tháng 6, 12: Ngày Tuất, Dần, Mẹo.

                  2. Phương pháp bấm tay

                  Với cách bấm này chúng ta sẽ sử dụng 2 ngón tay (thông thường các thầy phong thủy, tử vi sẽ sử dụng ngón trỏ và ngón giữa) mỗi ngón 3 đốt, 2 ngón 6 đốt ứng với 6 sao trong Lục Diệu. 

                  Trong Lục Diệu, vòng tuần hoàn ngày/tháng lần lượt theo chiều kim đồng hồ là 6 sao Đại an, Lưu niên, Tốc hỷ, Xích khấu, Tiểu cát, Không vong.

                  Ví dụ: Ngày 1 tháng 1 âm bắt đầu từ cung Đại An, này 2 là Lưu niên, … ngày 6 là Không vong và quay lại ngày 1 Đại an. Cứ như vậy tính tới hết tháng.

                  Đến tháng thứ 2 thì ngày 1 lại là Lưu niên, ngày 2 là Tốc Hỷ…. ngày 6 là Đại An.

                  Tương tự ta cứ tính như thế cho hết các ngày tháng trong năm.

                  Quy định sao tốt, sao không tốt sẽ là:

                  – Sao may mắn

                  Đại an: Nghĩa là niềm an vui lớn. Những ngày có sao Đại An chiếu rọi gia chủ có thể thực hiện các công việc như: khai trương, động thổ, xuất hành, giải quyết giấy tờ, thi cử hay làm ăn kinh doanh.

                  Tốc hỷ: Tức là niềm vui sẽ đến bất ngờ. Những ngày này nên chọn: kết hôn, động thổ

                  Tiểu cát: Nghĩa là niềm vui nho nhỏ. Những ngày này sẽ rất tốt để thi cử, kiểm tra. 

                  – Sao không may mắn

                  Lưu niên: Ngày mà thần ác cai quản nên mang ý nghĩa không mấy tích cực. Ngày này mà làm việc lớn rất khó để thành công.

                  Xích khấu: Đem lại sự cản trở, vô lý cho bản chủ vì thế trong ngày này tránh cãi cọ dễ gây thị phi.

                  Không vong: Hạn chế đi lại, khai trương hay ký hợp đồng bởi dễ có sự nhầm lẫn, sai sót trong giấy tờ gây ra các phiền phức không đáng có. 

                  Kết luận

                  Mỗi ngày Hoàng đạo, giờ hoàng đạo đều mang nhiều ý nghĩa khác nhau. Chọn được ngày Hoàng đạo tốt sẽ mang lại cho bạn nhiều may mắn trong cuộc sống. Hiểu được ngày hoàng đạo là gì, ngày hắc đạo, giờ hoàng đạo, giờ hắc đạo là gì sẽ giúp bạn xác định được phương hướng tốt/xấu mỗi khi làm việc gì để mang lại tài lộc và tránh được những rủi ro xấu.

                  Hạn Kim Lâu Là Gì? Cách Tính Và Giải Hạn Kim Lâu? Giá Mộ Đá Tam Sơn Ninh Bình

                  Mộ đá Tam Sơn hay còn gọi là Mẫu Mộ đá đơn, Mộ dành cho 1 người, Mộ có kiến trúc gồm các phần: Phần đế, Phần bưng (hay phần thân mộ), Phần Nắp và phần mái hay Bia mộ;

                  Mộ Tam Sơn đơn là Mẫu Mộ được sử dụng rộng rãi nhất hiện nay, được nhiều gia đình, dòng họ lựa chọn khi Xây dựng Lăng mộ đá, Mộ đá.

                  Chất liệu Đá làm Mộ đá Tam Sơn?

                  Với nhiều tên gọi khác như mộ không mái, mộ tam sơn, mộ hậu bành, mộ tam cấp đơn giản… Đây đều là các mẫu mộ đơn giản nhưng vẫn rất đẹp và được người thợ dành nhiều tâm huyết trong việc chế tác.

                  Trên mộ vẫn có các hoa văn tượng trưng cho những điều tốt đẹp hay các biểu tượng có ý nghĩa tốt trong phong thuỷ với mong muốn tăng được tính thẩm mỹ cho mộ và cũng mang lại nhiều điều tốt đẹp cho gia chủ.

                  Các chất liệu dùng để chế tác, điêu khắc mộ đá tam sơn như: Đá xanh đen, Đá xanh rêu, Đá trắng, Đá vàng, hay Đá hoa cương (đá granite).

                  Bảng Báo giá Mộ đá Tam Sơn cho Lăng mộ đá

                  Mộ đá tam sơn không mái: Giá khoảng 15 triệu đồng một ngôi, có thể tăng giảm tùy theo kích thước và mẫu mã.

                  Mộ đá một mái: Giá khoảng 20 triệu đồng một ngôi.

                  Mộ đá hai mái: Giá khoảng 25 triệu đồng một ngôi.

                  Mộ đá ba mái: Giá khoảng 30 triệu đồng một ngôi.

                  Kích thước mộ đá tam sơn đẹp theo phong thủy

                  Thước Lỗ Ban là một thước đo chuẩn mực phong thuỷ được dùng cả trong Dương Trạch (xây dựng nhà cửa) và Âm Trạch (xây dựng nhà cửa).

                  Thước Lỗ Ban được bắt nguồn từ một người thợ mộc nổi tiếng thời Trung Hoa cổ đại có cùng tên sáng tạo ra. Trên thước Lỗ Ban có đánh dấu những con số kích thước đẹp hoặc xấu xen kẽ với nhau.

                  Các nghệ nhân ĐÁ MỸ NGHỆ THỊNH HƯNG chế tác đá thường dùng thước Lỗ Ban để định hình kích thước chuẩn cho mộ đá đơn giản nhưng vẫn đẹp và mang điềm tốt.

                  Thông thường các nghệ nhân phải canh sao để kích thước này nằm trong cung đỏ của thước Lỗ Ban. Ngoài ra, việc canh chỉnh kích thước cũng cần phù hợp và cân đối để đảm bảo tính kỹ thuật của công trình và sự hài hoà về tổng thể của mộ.

                  Thời gian, xây sửa mộ đá trong năm? Xây mộ đá vào thời điểm trước tiết Thanh minh

                  Tiết thanh minh là phong tục có từ lâu đời của dân tộc Việt, là ngày mà con cháu tưởng nhớ về tổ tiên, ông bà, cha mẹ là dịp để tu sửa khang trang lại mộ phần.

                  Thời điểm tiết thanh minh thường rơi vào tháng 3 âm lịch hàng năm do vậy đây cũng là khoảng thời gian tương đối thoải mái trong công việc làm ăn đối với mọi người, chưa phải bận bịu quá nhiều vì công việc nên sẽ có nhiều thời gian thống nhất việc tu sửa, xây dựng lại lăng mộ cho đẹp đẽ, khang trang.

                  Hàng năm, cứ vào dịp thanh minh thì những người con từ khắp nơi dù có làm xa ở nơi nào đi chăng nữa cũng đều về thanh minh tảo mộ để nhớ tới công ơn của những người đã khuất

                  Tại các nghĩa trang tại khắp mọi nơi ngày thường rất hoang vắng vì phần lớn con cháu đều đi làm không có nhiều thời gian nhưng cũng vì cả những lý do như đi tảo mộ chỉ được phép đi vào những ngày trong tiết thanh minh mà thôi.

                  Xây mộ đá vào thời điểm cuối năm

                  Bắt đầu từ tầm tháng 8 âm lịch hàng năm việc xây mộ diễn ra rất phổ biến, và dồn dập vào tháng 10, 11 âm lịch. Đây là 2 tháng cao điểm trong việc xây dựng lăng mộ. Theo phong tục người Việt thì thời gian cải táng thường vào 3 tháng cuối năm, do vậy việc cải táng xong sẽ tiến hành xây dựng mộ luôn. Đặc biệt là ở miền bắc là vì vào mùa hanh khô, mặt trời bị mây che phủ nên ít tổn hại cho xương cốt và thời gian sang cát bốc mộ thường tiến hành vào ban đêm. Đối với khu vực miền trung thì thường xây mộ vào đầu năm vì cuối năm thường hay mưa bão. Với khu vực miền nam thì xây bất cứ thời gian nào trong năm vì người miền nam thường không có tục cải táng.

                  Xây mộ đá vào thời điểm khác trong năm

                  Hai khoảng thời gian trước tiết thanh minh vào các tháng cuối năm là tương đối phổ biến trong việc xây dựng lăng mộ. Tuy nhiên hiện tại thì việc hỏa táng hay mộ tươi (dạng mộ không cải táng, không bốc) và mộ hỏa táng, thủy táng ngày càng phổ biến. Khi người thân mất đi thường sẽ được hỏa thiêu vào bất kì thời gian nào trong năm và được người thân tiến hành xây dựng lăng mộ kiên cố luôn cho người đã khuất, giúp họ an nghỉ ngàn thu.

                  Nên xây mộ vào thời gian nào trong năm. Hi vọng những thông tin hữu ích phía trên có thể giúp các quý khách giải đáp được phần nào thắc mắc của mình.

                  Hạn Kim Lâu là gì?

                  Theo quan niệm dân gian thì hạn Kim Lâu là để chỉ chung tuổi nên tránh làm các việc đại sự.

                  Theo nghĩa Hán Việt “Kim là vàng, Lâu là nhà” có nghĩa là nhà vàng, lâu vàng và nguồn gốc của hạn Kim Lâu được xuất phát từ quan niệm xưa thì con gái nhà vua chúa, giới quý tộc sẽ chọn kết hôn việc làm nhà sẽ chọn tổ chức vào tuổi Kim Lâu để có cuộc sống sung túc có điện ngọc, lầu son. Do đó, giới vua quan mong muốn vàng bạc cuộc sống giàu sang không bị cưới mất, đổi vận nên cấm dân thường cưới hỏi, làm nhà vào năm có tuổi Kim Lâu.

                  Theo thời gian quan niệm này dần trở thành những điều kiêng kỵ cần phải tránh khi làm việc hệ trọng xây nhà, kết hôn và nó mất đi ý nghĩa ban đầu là các năm tuổi đẹp. Bởi vậy, khi làm nhà hay cưới vợ, cưới chồng, mua xe…. thường tìm hiểu Kim Lâu là tuổi nào, tuổi phạm Kim Lâu để tránh do lo sợ nếu phạm tuổi Kim Lâu sẽ xấu.

                  Các loại hạn Kim Lâu?

                  Hạn Kim Lâu không giống nhau ở mỗi tuổi và mỗi năm bởi phụ thuộc vào tuổi phạm Kim Lâu mà người phạm sẽ có thể gánh chịu loại hạn Kim Lâu nào. Bởi trong Hạn Kim Lâu được chia thành 4 loại vận hạn hay còn gọi là “Tứ Kim Lâu” bao gồm: Kim Lâu thân, thê, tử và lục súc với 4 loại phương hại khác nhau.

                  Tùy vào tính tuổi sẽ có hạn Kim Lâu khác nhau, mỗi Kim Lâu có phương hại riêng. Trong đó nếu

                  Phạm Kim Lâu thân: Gây tai hoạ cho bản thân người chủ tức là tai họa nếu ấp xuống thì người có tuổi phạm sẽ là người dánh chịu nặng nề nhất.

                  Phạm Kim Lâu thê (vợ): Gây tai hoạ cho người vợ của người phạm Kim Lâu. Nếu xét về cưới hỏi thì nếu phạm Kim Lâu thê thì người thân là người chồng sẽ chịu hậu quả.

                  Phạm Kim Lâu tử: Gây tai hoạ cho người vợ của người phạm Kim Lâu.

                  Phạm Kim lục súc: đây là nạn không kiên qua tới con người nhưng gây họa cho gia súc vật nuôi và xét một mặt nào đó là ảnh hưởng tới kinh tế gia đình.

                  Hạn Kim Lâu tốt hay xấu?

                  Không có một khẳng định rõ ràng về việc tác động của Kim Lâu lên cuộc sống của người bị phạm nhưng các cụ đều tin rằng:

                  ” Một – ba- sáu-tám – Kim Lâu

                  Làm nhà, cưới vợ, tậu trâu – thì ĐỪNG”

                  Đây được hiểu là một vận hạn mà ai cũng sẽ phải trải qua trong cuộc đời. Và nếu với nữ giới kết hôn vào tuổi hạn này thì trước hết là hại cho bản thân, sau đó là cho bạn đời và cả cuộc sống sau này của hai người. Còn nếu nam giới xây nhà phạm phải hạn này thì dễ khiến cho mọi việc đều trắc trở, làm ăn ngày càng khó khăn, khó phát. Vào các năm vào hạn, người ta thường kiêng kỵ tiến hành các công việc trọng đại như ăn hỏi, cưới xin, xây nhà, mua xe…

                  Cách tính tuổi phạm Kim Lâu?

                  Cách tính hạn này sẽ là khác nhau cho đối tượng nam hay nữ. Thường thì người ta tính tuổi hạn cho nữ để xem có cưới hỏi được hay không. Còn nam giới khi tính hạn để xem năm đó có xây được nhà hay không hay có mua được xe không.

                  Cách tính tuổi Kim Lâu lấy chồng: Mục đích của việc tính hạn này là dành cho nữ giới, tránh năm phạm để khỏi vất vả trong cuộc sống hôn nhân. Tính tuổi hạn này cho nữ phải lấy cả tuổi mụ, lấy số tuổi mụ của cô dâu cộng lại với nhau cho đến khi ra số cuối cùng nhỏ hơn hoặc bằng 9. Chẳng hạn, cô dâu sinh năm 1985, tuổi mụ là 31, lấy 3+1=4. Với cách tính trên, lấy 31 chia 9 cũng dư 4, như vậy không phạm vào Kim Lâu.. Khi vào các năm vào hạn, không nên tiến hành việc cưới xin, ăn hỏi. Bởi rất có thể khiến cho mọi việc trắc trở, cuộc sống hôn nhân hay lục đục.

                  Cách tính tuổi Kim Lâu xây nhà: Mục đích của việc tính hạn này là dành cho nam giới, tránh năm phạm để việc xây nhà diễn ra suôn sẻ, gia đình hạnh phúc, làm ăn phát đạt. Lấy tuổi nam giới kể cả tuổi mụ, chia cho 9, phạm phải hạn là những tuổi khi chia có số dư là 1, 3, 6, 8. Nếu hạn Kim Lâu thì không nên xây nhà bởi rất có thể hạn Kim Lâu sẽ khiến mọi việc xây dựng không suôn sẻ hoặc hao tài sau này. Khi tính tuổi xây nhà, nếu người đàn ông trong nhà đã mất thì lấy tuổi của con trai cả, nếu nhà không có con trai thì lấy tuổi của người vợ.

                  Nếu phép chia có dư là các số 1 (phạm Kim Lâu thân), 3 (phạm Kim Lâu thê), 6 (phạm Kim Lâu tử), 8 (phạm Kim Lâu lục súc) thì phạm hạn Kim Lâu.

                  Ngoài ra còn một số cách tính tuổi phức tạp khác căn cứ vào nhiều nguồn khác nhau, đòi hỏi người tính phải nắm được phương pháp, hiểu biết…

                  8 tuổi không bao giờ phạm Kim Lâu

                  8 tuổi không phạm Kim Lâu chính là: Canh Dần, Canh Thân, Nhâm Dần, Nhâm Thân, Tân Sửu, Tân Mùi, Kỷ Sửu và Kỷ Mùi. Đây là các tuổi đặc biệt sẽ không phạm phải hạn, thế nên những người thuộc 8 tuổi này thì khi làm nhà hay cưới hỏi sẽ không cần tính hạn này.

                  Phạm Kim Lâu có cưới được không?

                  Theo nhiều nguồn sách vở thì thực ra Kim Lâu không hẳn là cách tính áp dụng cho việc dựng vợ gả chồng mà là cho việc xây cất nhà cửa. Đặc biệt, nhiều ý kiến cho rằng cưới vào năm Kim Lâu không quan trọng bằng việc chọn ngày cưới tốt, hợp với tuổi của cả vợ và chồng, không phạm Tam Tai.

                  Bên cạnh đó, phạm Kim Lâu vẫn có thể cưới được vì dân gian cũng có cách hoá giải Kim Lâu khá đơn giản để các cặp đôi vẫn có thể lấy nhau trong các trường hợp cấp bách hoặc bác sĩ bảo cưới. Cụ thể sẽ có ở phần cuối bài viết này.

                  Phạm Kim Lâu có làm nhà được không?

                  Trong quan niệm xem Kim Lâu sẽ có 4 vận hạn và tùy từng loại hạn Kim Lâu phạm phải khi làm nhà, xây nhà mà sẽ có những loại thiệt hại khác nhau.

                  Cụ thể quan niệm về Hạn Kim Lâu làm nhà và cưới hỏi sẽ gồm có 4 loại hạn như sau:

                  Hạn Kim Lâu Thân: Xây nhà phạm Kim Lâu thân có nghĩa là bản thân người đứng tuổi làm nhà sẽ gặp những tai họa kéo đến. Làm nhà phạm tuổi Kim Lâu thân chính là mọi tai họa đổ dồn vào người trụ cột đứng tuổi làm nhà trong gia đình.

                  Hạn Kim Lâu Thê: Theo phong thủy xem tuổi làm nhà thì Kim Lâu thê có nghĩa kỵ người vợ. Theo quan niệm mua nhà, làm nhà, sửa nhà nếu người đứng tuổi phạm Kim Lâu thê có nghĩa là tai họa, điều xấu sẽ giáng xuống đối với nữ nhân (người vợ) trong gia đình.

                  Hạn Kim Lâu Tử: Tử là con, do đó đối với việc xây nhà phạm Kim Lâu Tử thì con cái trong nhà sẽ là người gánh chịu những tai họa.

                  Hạn Kim Lâu Lục Súc: Là hạn về chăn nuôi của gia đình. Vì vậy, phạm Kim Lâu lục súc có xây nhà được không? Quan niệm phạm Kim Lâu lục súc có làm nhà được không sẽ phụ thuộc vào vấn đề phát triển kinh tế gia đình có chăn nuôi hay không.

                  Trường hợp làm nhà phạm Kim Lâu Lục Súc nhưng gia đình không chăn nuôi các loại vật nuôi gia súc, gia cầm làm kinh tế chủ đạo thì có thể làm được.

                  Trường hợp xây nhà phạm Kim Lâu Lục Súc và gia định có phát triển kinh tế chăn nuôi các loại vật nuôi gia súc, gia cầm làm kinh tế chủ đạo thì nên tránh bởi hạn này khiến cho bạn khó khăn trong việc nuôi dưỡng, con vật dễ ốm, bệnh, chết và kinh tế gia đình, làm ăn ảnh hưởng.

                  Đa phần việc xây nhà tuổi Kim Lâu đều khuyên không nên làm bởi chúng đều có thể gây ra những tai hại nhất định cho gia đình, nhẹ thì tán hao tài sản, nặng có thể mất mạng, gia đình ly tán.

                  Cách hoá giải hạn Kim Lâu?

                  Hoá giải Kim Lâu trong việc cưới hỏi

                  Tuổi Kim Lâu trên thực tế vẫn có thể hóa giải bằng nhiều cách. Đây là những phương pháp hóa giải Kim Lâu được nhiều người tin tưởng, có tác dụng lớn nhất:

                  Cách 1: Dù trong năm Kim Lâu nhưng chỉ cần qua Đông chí là có thể tổ chức cưới

                  Cách 2: Chờ qua ngày sinh nhật của cô dâu, coi như khi đó cô dâu đã sang tuổi mới, thoát khỏi tuổi Kim Lâu (tính tuổi âm lịch).

                  Cách 3: Cưới 2 lần – xin dâu hai lần: để hoá giải việc “đứt gánh giữa đường” hay gây ra những điều không tốt trong các mối quan hệ trong hôn nhân khi phạm Kim Lâu.

                  Đặc biệt: Kim Lâu chỉ áp dụng cho các cô dâu dưới 30 và hoàn toàn có thể hóa giải Kim Lâu bằng cách chọn ngày giờ hoàng đạo thật tốt

                  Nhìn chung, tất nhiên là có kiêng có lành nhưng các cặp đôi cũng đừng quá lo lắng tuổi Kim Lâu có đến được không mà lở dở chuyện cả đời. Cô dâu chú rể hãy cần nhìn nhận ở góc độ, chuyện tính tuổi Kim Lâu còn mang tính dân gian, truyền miệng. Điều này phụ thuộc vào quan niệm từng vùng miền nên chỉ có thể xem đó như liệu pháp tinh thần trong đời sống, chứ không nên quá cứng nhắc.

                  Hoá giải Kim Lâu để làm nhà, xây nhà

                  Nếu gặp năm Tứ Kim Lâu nhưng bạn muốn xây nhà thì có thể hóa giải bằng cách “mượn tuổi”. Cách này có nghĩa là bạn sẽ nhờ người có tuổi đẹp trong năm đó mà không phải Kim Lâu hay các hạn cấm kỵ khác để thực hiện các công việc, đứng tên với vai trò là chủ nhà từ việc: cúng bái, động thổ, tổng coi vậy xây dựng, nhập trạch.

                  Hết năm đó khi bạn không còn phạm hạn Kim Lâu thì có thể làm thủ tục mua bán âm để chuyển quyền sở hữu nhà mới xây đó sang cho mình.

                  Kết luận

                  Đến hiện nay cũng không còn nhiều gia đình quá quan trọng đến vấn đề này, bởi nếu trong việc cưới xin mà cô dâu chú rể ế lâu quá con người ta cũng không còn sợ kim lâu gì nữa. Và dẫu có ra sao thì chỉ cần các cặp vợ chồng mới cưới nhường nhịn cũng như chia sẻ quan tâm hỗ trợ lẫn nhau thì tất cả mọi chuyện xấu, hạn đều cũng sẽ vượt qua một cách dễ dàng.

                  Nếu toàn bộ cuộc đời con người được định sẵn thì thế giới này sẽ nhàm chán lắm thay. Không có đấu tranh. Không có cố gắng. Không còn nỗ lực hay bền chí kiên tâm. May thay số mệnh chỉ là tương đối. Tâm người là phong thuỷ lớn nhất: Đức năng thắng số, tâm định mệnh chuyển. Suy cho cùng, vẫn là cái cốt lõi của nhân sinh

                  Cách Tính Toán Toán Móng Băng?

                  -Tâng 1 họ làm quán cà phê nên làm cột ở trục B thì sẽ làm mất độ rộng của không gian bác ạ.Em định đi cái móng gạch ở trục B để sau này họ cải tạo xây nhà thì có thể xây tường ở trên.Bác thâý thế có ổn không ạ? – Còn Cầu thang bậc chéo để tiết kiện diện tích ô cầu thang bác ạ.CHứ tôi vẫn thích cầu thang có chiếu nghỉ hơn.Lúc đầu tôi định thiết kế vệ sinh dưới cầu thang.Nhưng nghĩ lại quán cà phê thì ở dưới cầu thang bố trí tiểu cảnh thì đẹp hơn. -Bác Tuanlt có nhiều kinh nghiệm vẽ cad và thiết kế nhà thì bày cho tôi với.Em mới ra trường nên thủ thuật và kinh nghiệm ít quả.làm cái nhà là mất rất nhiều thời chúng tôi nghiệm thi công có thể nói là bằng không nên để làm hợp lý giữa kiến trúc và kết cấu cho người ta thi công được cũng là 1 vấn đề khá mất thời gian với bọn tôi.Nghe nói các bác cứ làm mấy ngày là xong được cái nhà thật đáng ngưỡng mộ.

                  Philipboxy

                  Không biết xu hướng thiết kế nhà Hải Phòng hiện nay thế nào nhỉ? Cuối năm nay mình xây nhà. Nên chọn phong cách thiết kế hiện đại hay tân cổ điển.

                  Luckyman

                  Móng băng và móng cọc không biết giá thành bên nào rẽ hơn bác nhỉ?

                  noithatchangson

                  EM thấy mấy cái trường cao 5 tầng cột toàn 10phi25, thép đai ở chân và cổ cột là chúng tôi hỏi có mấy nhà dân cao tầm 4 tầng, cũng móng băng thấy làm có 6phi20 thôi.Chênh nhau quá. -Sàn của tôi cái lớn nhất gần 36m2 thì có dày 10cm có ổn không bác nhỉ?Hay là phải cho lên 15 phân hoặc đi thêm cái dầm phụ?Thép sàn tôi định đi phi8a150 như truyền thống.Không biết có ổn không hả bác?

                  taolaai

                  Giả sử mỗi tầng tải 20kPa. Như vậy, 5 tầng 100kPa. Sức chịu tải của đất cho là 10T/m2 = 100 kPa. Như vậy, 100/100 = 1 !!! nếu làm móng băng đủ chịu tải hok nhỉ.

                  Stevennefs

                  Em thấy móng băng họ vẫn làm nhiều mà bác.Sức chịu tải của đất mà bác chọn là 1kg/cm2.Đất là đất yếu đúng không ạ? Làm phương án móng cọc thì an toàn hơn nhiều.Nhưng giờ đã làm móng bẳngooiif.Chuyển phương án móng cọc thì lại mất thêm thời gian.mà hô sơ thì chủ nhà đang giục.Hix

                  GeorgeEr

                  Ý tôi là cột trục B ở tầng 1 ấy (tầng trệt thì đương nhiên là không có), mấy cái cột giữa này sẽ cấy lên dầm ngang, như thế sẽ giảm nhịp dầm ngang từ tầng 2 trở lên. Hình như cái nhà này bạn cũng làm kiến trúc nhỉ. Cầu thang: Theo tôi bạn làm chưa chuẩn và cũng không tiết kiệm. Lý do: – Bậc rộng 300 là quá lớn nên mất nhiều diện tích, chỉ cần 250 là được rồi. Như thế bạn sẽ không phải làm bậc chéo ở chiếu nghĩ nữa. Tất nhiên bạn còn phải tính đến chiều cao bậc. Quan hệ giữa chiều cao bậc và bề rộng của bậc tính theo công thức Blonde: 2h+b=600-640 là hợp lý. – Về cả khoa học kiến trúc lẫn phong thủy: Chiều cầu thang nên đi ngược chiều kim đồng hồ (như thang ngoài nhà tầng trệt). Lúc đó về công năng thì lợi hơn, vì khi đi xuống dễ vấp ngã nguy hiểm hơn thì có thể vịn tay vào tay vịn thang. Cột: Các cột 2-B và 3 B nên làm hình chữ nhật 22×35 để lẫn vào tường. Bạn cũng có thể thay đổi tiết diện cột 3B khác nhau giữa tầng trệt và các tầng trên nhằm hợp lý hóa kiến trúc. Dầm: Đi chưa đẹp. Nếu đóng trần thì không lo, còn không thì phải chú ý kẻo làm xong thì mới thấy trần xấu vì bọn dầm nó chạy loạn cả lên. Khi làm kết cấu bạn cũng phải chú ý xem nó có ảnh hưởng tôii kiên trúc hay không Nếu chưa quen với thiết kế kiến trúc, bạn nên dành thời gian dựng toàn bộ không gian bên trong nhà, như thế bạn sẽ nắm rõ cấu tạo và hình dung trước được không gian mà tôi sẽ tạo ra.

                  Marcunst

                  Tôi cũng không hiểu chủ nhà thế nào nữa, nếu đã cần TVTK do nhà có mục đích kinh doanh dịch vụ thì nên cần kiến trúc sư làm. Đưa cho 1 ông ks mới ra trg làm toàn bộ. Không hiểu “cái đẹp”, sự tiện lợi về công năng, chắc chắn về mặt kĩ thuật sẽ đi đến đâu. KL: chủ nhà mang tính chất nửa mùa.

                  xac suat

                  Nhà ở khu vực nào vậy bạn ? Nếu đất tốt thì làm móng nông ok. Nhưng nhà 5 tầng (lại có dầm nhịp lớn) làm móng nông thì cần người có đầy kinh nghiệm mới được. Bạn thử gửi tôiail riêng nhờ thầy Ngọc hoặc anh Oanh tư vấn cho chắc. Thực sự tôi cũng k giám tk móng nông cho nhà 5 tầng. Khi nào làm xong nhớ post lên cho tôi học hỏi nhe.

                  arthomeviet

                  hì hì, hồi xưa có làm cái nhà 9 t móng bè, không biết bây giờ đã sập chưa?

                  MaroldPl

                  Tôi nghĩ móng bè và băng giao thoa chắc có điểm khác nhau. Nhưng không rỏ khác nhau như thế nào.

                  tontai

                  Theo tôi thì bác nên tính cẩn thận như đồ án BTCT2 í. Thường nhà 5 tầng là người ta bắt phải có phần tính toán kết cấu đi kèm rồi. Về móng băng thì bác phải tìm tải trọng ở chân cột trước đi . Dúng sap hay etabs đều tính được đấy. Sau đó mới thiết kế móng băng. Nhà 5 tầng thì làm móng băng thường sâu 1,2 m. Bác mua quyển Khung Bê Tông Cốt Thép Toàn Khối có hướng dẫn đầy đủ từ chọn chiều dày sàn, dầm…..

                  williamcuong

                  Cảm ơn bác rất nhiều.EM còn non kinh nghiệm quá. – Ý kiến của bác cấy cột từ tầng 1 trở lên hay quá.Lúc đó thì đi dầm 22×30 là được.Lợi được dầm, nhưng thế thì sẽ tốn thêm chi phí cột.BÙ trừ thì tôi nghĩ giá thành 2 cái sẽ gần giống nhau.Mà cách thi công cấy dầm thì lại phức tạp hơn. -Cầu thang tôi nghĩ chiều dài bàn chân đi dày của người bính thường là cũng 28-30 rồi chứ nhỉ?Cầu thang rộng 25 thì đi sẽ bị hổng chân. CHiều đi của cầu thang trong thì là do chủ nhà muốn đặt bên đó ạ.CHiều cao bậc thang thì tôi dùng chiều cao tầng chia cho 25 hoặc 21 bậc theo phong thủy sinh, lão, bệnh, tử. -Cột 2b,3b tầng trệt tôi sẽ để 35×35 cho an toàn.Từ tầng 1 trở lên thì giảm xuống 22×35.Bác thấy thế có được không ạ? – Dầm thì do cầu thang trong đổi từ chữ L sang chữ U để tiết kiệm diện tích phòng từ tầng 1 trở lên.Vì vậy mới có 1 cái dầm D4 gần trục 3 ở tầng 1.Dầm D4 tôi sẽ thiết kế là dầm nổi,phía trên thì xây tường lên làm ngăn phòng.Như vậy phía dứoi nhìn lên sẽ không thấy dầm D4. Mấy cái dầm ở nhà vệ sinh thì để xây vách phòng vệ sinh lên mà bác? Bác Tuan có cái phần mềm miễn phí nào hỗ trợ vẽ Cad cho nhanh không ạ?

                  CharlesEn

                  Em sẽ gia cố cọc tre phía dưới.BỮa trước đề nghị chủ nhà phương án móng cọc.Nhưng ổng không chịu.Khăng khăng đất tốt dùng phương án móng băng.Tư vấn cho ổng rồi mà ông khăng khăng thế thì chịu rồi.Giờ tính tăng lên cho an toàn thôi bác ạ.

                  test0032

                  – Thêm cái cột thì đáng mấy đồng. Nó lại làm giảm thép dầm. Thi công cũng không phức tạp gì. Nếu có phức tạp là ở chỗ phải tính toán kết cấu thôi. – Dầm nhà vệ sinh: Nếu tường 110 thì có thể bỏ qua không làm dầm đỡ tường. Hoặc cẩn thận hơn thì bạn làm cái dầm rộng 110 thôi. – Để vẽ nhanh thì không những vẽ giỏi mà còn phải tính giỏi, tư duy nhanh, có kinh nghiệm và quan trọng là quen tay. Bạn cứ vẽ thật nhiều rồi sẽ nhanh thôi.

                  profilmuoisau16

                  Diện chụi tải của cột Lớn nhất là cột trục 3b, 26m2, nhà 5 tầng, Tải chân cột trục 3b khoảng : 1.2x5x26x1.0 = 156 tấn! Nếu bạn xài móng băng như trên thì sơ bộ diện tích móng sẽ phụ thuộc vào cường độ đất nền giả định, P=12 T/m2, Suy ra diện tích cần thiết của móng băng: 13m2, Suy ra móng băng của bạn tầm 1m6. Ok!

                  hiepsitayto

                  -Nhà vệ sinh xây tường 110 thì ngoài việc tăng thép sàn lên thì có cần phải gia cường 2 thép phi 16 dưới tường không bác?Em thấy một số bác trong diễn đàn thường làm như vậy.Nhưng tôi nhớ có tiêu chuẩn là chọn thép sàn là =

                  Robertplus

                  Làm móng cọc cho chắc, tối đến ngủ ngon. (thiết kế có chút tiền mà tiền sửa chữa vụ nứt tường hơn cả tiền thiết kế)

                  thanhthuonghm

                  Nên gia cường cho chắc cũng được. Thực tế trong thi công mà xây tường lệch dầm 5-7 cm là chuyện hoàn toàn có thể xảy ra, bạn đừng lăn tăn quá. Tôi đã từng chứng kiến người ta đổ cột tầng 1 lệch cột tầng 2 (cột 220) đến 10 cm nữa là… Khi đi làm thì đừng máy móc quá mà nên để ý kỹ người ta thi công thế nào. Có như thế đến khi đi giám sát mấy ông thợ mới không coi thường tôi được.

                  RaymondEr

                  Cập nhật thông tin chi tiết về Cách Tính Ngày Trùng Tang – Nhập Mộ – Thiên Di trên website Gdcn.edu.vn. Hy vọng nội dung bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu của bạn, chúng tôi sẽ thường xuyên cập nhật mới nội dung để bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!