Việt Cộng Là Tốt Hay Xấu / Top 18 Xem Nhiều Nhất & Mới Nhất 9/2023 # Top Trend | Gdcn.edu.vn

Tiếng Việt Của Việt Cộng? Tiếng Việt Của Cộng Hòa?

Cách đây mấy năm, anh bạn tôi là một nhà báo người Việt, đang làm ở một tờ báo tiếng Việt tại Mỹ than thở: “Khó quá đi trời đất ơi! Các cụ bắt bẻ từng từ một. “Sân bay” không được, phải gọi “phi trường”. “Đường băng” không được, phải xài “phi đạo”. “Tài khoản” (ngân hàng) không được, phải xài “trương mục”… Các cụ bảo “sân bay”, “đường băng”, “tài khoản” là từ của Việt Cộng, cấm xài. Phải xài từ của Cộng hòa mới được!

Mà nói hay viết theo mấy cụ thì mình cũng chịu. Mình chưa đến 35 tuổi, các cụ thì sáu mươi bảy mươi cả, từ ngữ các cụ dùng chẳng còn trong sách vở hay giao tiếp thời này, chẳng mấy ai còn nói hay viết như thế. Giới trẻ làm sao hiểu? Mà không xài thì các cụ giận, các cụ bảo mình là cộng sản, rồi các cụ tẩy chay báo”.

Tôi cười lăn cười bò. Cười xong, tôi nổi cái tật tò mò táy máy, đi kiếm thử coi chuyện ảnh nói có thiệt không.

Hóa ra là thiệt.

Hóa ra có cả một nhóm người sống ở hải ngoại luôn muốn tẩy chay tiếng Việt đang được dùng trong nước. Họ bảo đó là tiếng Việt của Việt cộng, do một bọn ngu dốt nghĩ ra hoặc chế chữ nên không được dùng. Tôi không rõ hàng ngày khi giao tiếp với người khác thì họ ăn nói thế nào, nhưng trong các diễn đàn về tiếng Việt thời Cộng hòa, nhóm người này yêu cầu chỉ dùng những từ ngữ được sử dụng dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Để xác định được từ đó có đúng là được dùng trong thời Việt Nam Cộng hòa hay không thì chỉ được dùng hai cuốn từ điển tiếng Việt xuất bản dưới thời Việt Nam Cộng hòa. Đó là Việt Nam từ điển của Hội Khai trí Tiến Đức, xuất bản năm 1954 và từ điển Hán-Việt của Nguyễn Văn Khôn, cũng xuất bản trước 1975.

Số từ mà nhóm người này tẩy chay khá nhiều. Tôi xin liệt kê một ít.

Tôi chỉ liệt kê một ít từ ngữ phổ biến. Chứ nếu kê đủ chắc ngồi hết nhiều đêm.

Khách quan mà nói, có những từ ngữ đang phổ biến trong báo chí, văn bản tiếng Việt trong nước đúng là rườm rà, màu mè, sai nghĩa, hoặc không phù hợp ngữ cảnh, hoặc khô khan, hình thức. Thí dụ như “đẩy mạnh”, “tăng cường” “nâng cao” “tiến lên một bước”… áp dụng trong hầu hết các báo cáo của nhà nước Việt Nam và các bản tin mang tính thông tấn.

Để giữ gìn vẻ đẹp của tiếng Việt, chắc chắn cần nhiều người dùng tiếng Việt ở khắp nơi cùng nhau soi chiếu và chọn lọc.

Nhưng việc tẩy chay những từ ngữ mới trước đây mình chưa từng dùng, chỉ vì ám thị “ghét cộng sản, ghét Tàu” dẫn đến phủ nhận toàn bộ những gì đang được sử dụng trong nước, mới sinh ra trong nước hoặc “có hơi hám Trung Cộng” thì thật cực đoan và trẻ con.

Việc có những người lớn tuổi nuối tiếc chế độ Việt Nam Cộng hòa xong cương quyết quay lưng với ngôn ngữ trong nước như trong bảng kê nêu trên cũng y chang như việc quy kết “Hán nô” với ông Tưởng Năng Tiến, chỉ vì cái bút danh của ông nghe không giống tên người Việt thuần.

Những vị này đòi hỏi chỉ được dùng những từ ngữ đã được dùng trong thời Việt Nam Cộng hòa. Nhưng có lẽ các vị cũng quên mất, ngay cả trong thời Việt Nam Cộng hòa thì tiếng Việt tự nó cũng đã sinh ra và mất đi vô vàn từ ngữ mới, lối nói mới.

Thí dụ cụm từ “Bỏ đi Tám”. Theo tác giả Nguyễn Thị Hậu, nó sinh ra ở khu vực Sài Gòn-Chợ Lớn vào thời Pháp thuộc, vào đầu thế kỷ 20. Tám là vị trí của người lao động bình dân trong hệ thống thứ bậc trong xã hội (chắc do một nhóm anh Hai nào đó trà dư tửu hậu mà thành). Ở đó quan quyền xếp thứ nhứt, dân công chức xếp thứ hai (thầy Hai thông ngôn, thầy Hai thơ ký…), thương gia Hoa kiều xếp thứ ba (chú Ba mại bản), dân giang hồ dao búa xếp thứ tư. Cũng là giang hồ nhưng thuộc loại đá cá lăn dưa hạ cấp hơn thì xếp thứ năm (thằng Năm móc túi giựt giỏ), thứ sáu là các thầy phú-lít (cảnh sát, police), mã tà. Thứ bảy là giới cho vay (anh Bảy Chà Và). Thứ tám, giới lao động bình dân đông đảo và nghèo nhứt. Thứ chín là giới “chị em”.

“Tám” nghèo và yếu tiếng nói nhứt trong giai tầng xã hội nên chuyện gì tranh chấp xảy ra thì Hai, Ba, Tư, Năm, Sáu, Bảy vẫn giành phần hơn. “Tám” thì lãnh đủ. Vậy nên phải ráng nhẫn nhịn, bỏ qua mà sống. “Bỏ qua đi Tám”! Hay tuyệt trần đời!

Ngoài ra, còn có “sức mấy”, “áp phe”, “âm binh”, “cô hồn các đảng”, “cà chớn chống xâm lăng” “cù lần ra khói lửa”, “cà na xí muội”, “cha chả”, “dân chơi Cầu ba cẳng”, “bận đồ khính” “một ly ông cụ”… Tiếng lóng bình dân còn có “bề hội đồng”(ăn hiếp tập thể, một nhóm người xúm nhau trị một người, dùng được trong rất nhiều hoàn cảnh, hay được dùng để chỉ vụ hiếp dâm tập thể)… Nhiều từ lắm, và nhiều từ hay lắm, thế nhưng bây giờ chính những người Việt lớn tuổi ở hải ngoại có còn dùng không?

Ngay ở trong nước, có những từ/lối nói chỉ cách đây một năm gần như thành câu cửa miệng, như “không phải dạng vừa đâu” “không phải đậu vừa rang”, thì sau một thời gian ngắn cũng đã “dạt trôi”, biến mất tăm mất tích, không ai còn nói nữa.

Ở miền Bắc Việt Nam, cách đây độ hai chục năm, muốn khen ai thật độc đáo, cá tính, giỏi giang xuất sắc trong lĩnh vực nào đó, giới trẻ trầm trồ “Nó tanh lắm”, “Khét mù”, “Khét lèn lẹt”, mặc dù người ấy rất thơm tho chứ chẳng tanh với khét gì cả.

Bây giờ, vẫn nội dung ấy thì gọi là “siêu” “chất” “chất vãi” “chất vãi chưởng”, hoặc mạnh mẽ hơn: “trất’ssssss”. “Trất” với dấu sở hữu cách tiếng Anh biến thể đằng sau chẳng có ý nghĩa gì cả, nhưng đó lại là sắc thái biểu thị rằng anh/cô/đứa ấy nó xuất sắc, độc đáo, cá tính đến tột đỉnh, “đỉnh của đỉnh”.

“Đỉnh của đỉnh” về ngữ nghĩa là không chính xác. Đã đỉnh thì chỉ có một chứ lấy đâu ra hai? Nhưng về sắc thái thì nó hết sức thú vị, vì biểu thị thái độ khâm phục, khen ngợi, công nhận… đến mức tột cùng, không thể chê bai một tí tẹo nào nữa.

Cái tươi mới, tung tẩy, biến hóa, sinh động của một sinh ngữ chính là ở những biến thể như vậy. Bởi vì ngoài ngữ nghĩa, nó còn thể hiện một cách tinh vi các cung bậc của thái độ và cảm xúc.

Khi trực tiếp gặp mặt, ngoài tiếng nói, còn có ánh mắt, nụ cười, ngôn ngữ hình thể bổ sung và làm rõ ý nghĩa của từ ngữ. Thí dụ cùng hai chữ “Thấy ghét” nhưng nói với cái nguýt mắt âu yếm, cái phát nhẹ vào vai, đôi môi hơi bĩu ra nũng nịu, chữ “ghét” kéo dài, âm điệu lên xuống trầm bổng… thì nội dung chính xác của nó lại là “Thương rồi á nha”. Còn nếu cộc lốc “Thấy ghét” kèm cái lườm hay cái nhìn trừng trừng khó chịu, thì phải xách quần chạy cho mau chớ xáp xáp vô là ăn tát.

Khi chỉ giao tiếp qua chữ viết, những “ý tại ngôn ngoại” biểu cảm qua ánh mắt, nụ cười, sự ngúng nguẩy của đôi chúng tôi những điều thú vị như thế đều gần như mất hết. Do vậy mà các hãng sở hữu mạng xã hội phải luôn luôn vẽ ra thật nhiều icon (biểu tượng) sống động, để mà khi chữ viết thất bại, thì người ta gõ thêm một cái icon bổ sung hoặc thay thế. Thậm chí còn phải dùng cả những hình ảnh động để biểu cảm và chính xác hơn.

Thí dụ một cô gái chat với chàng trai “Anh giúp em nha” và “Anh giúp em nhaaaaaaa”. Nội dung y chang nhau, nhưng chữ “nha” kéo dài ở câu sau cũng y như khi cô kéo dài giọng nói với chàng trai vậy. Nó thể hiện sự thân mật, nài nỉ, nhõng nhẽo… mà câu trước không có, hoặc không thể hiện ra được.

Hay, hai ông đang cãi nhau kịch liệt trên mạng, mà một ông chốt: “Vâng, của nhà bác tất. Chào bác em ngược” thì không phải ông nọ đang nhường của cải cho ông kia, mà là bỏ cuộc, tuyệt vọng vì thấy bên kia bướng quá không thể thuyết phục được, hoặc không chấp nữa, cóc quan tâm nữa, “mày muốn nói gì cũng được, bố dí vào”.

Bởi vì ngôn ngữ là sinh ngữ, có sinh ra và mất đi, có chuyển đổi, lai ghép, có trào lưu và thoái trào. Những thay đổi này diễn ra nhanh chóng và mạnh mẽ ở cộng đồng có nhiều người cùng nói thứ tiếng đó. Nó có thể được sinh ra bất thần trong một câu nói, một cuộc trò chuyện giữa bất cứ ai, ở bất cứ đâu, từ đường phố đến “triều đình”, hay trong một tác phẩm được thai nghén nhiều năm. Chỉ cần nó giàu biểu cảm, mới lạ, hài hước hoặc thông minh, hoặc chỉ ngồ ngộ, vui tai… là đã đủ để phổ biến.

Gượng ép gán thái độ chính trị vào cho những từ ngữ mà trước giờ mình chưa từng thấy, như “từ ngữ của Việt cộng”, “từ ngữ của Tàu cộng” là công việc rất trái tự nhiên, rất mệt mỏi và khiên cưỡng. Nó chỉ khiến người ta xơ cứng, quẩn quanh, già cỗi, lạc hậu và tự cô lập với cộng đồng.

Nếu thực tâm muốn giữ tiếng Việt cho trong sáng và giàu có, trước nhất phải giữ cái đầu cởi mở, chọn lọc, tinh tế và thông minh. Không thể bắt nó đóng băng, làm một cái xác sống, sống bằng hoài niệm cổ hủ. Đó là một việc vô nghĩa chẳng khác gì muốn cái cây tươi tốt nhưng lại chặt hết rễ của nó.

*Bài viết không thể hiện quan điểm của RFA

Phân Biệt Việt Cộng Và Không Việt Cộng

Phân biệt Việt Cộng và không Việt Cộng Nam hay Bắc không có gì khác biệt, chỉ là nơi sinh trưởng khác nhau. Chỉ phải phân biệt Việt Cộng và không Việt Cộng. Nếu đã là Việt cộng thì ta cũng nên biết Việt cộng là gì? Mời bạn đọc trích đọan.

Việt Cộng – Việt Cộng.

Hai tiếng này, tôi không hiểu sao, cho đến ngày nay, nó trở thành hai tiếng xấu xa, kinh tởm nhất trong số những danh từ để ám chỉ những hạng người mà ai ai cũng oán ghét, hận thù và muốn xa lánh. Nhưng hai tiếng Việt Cộng nguyên thủy đâu có gì là xấu xa, nó chỉ là một danh từ ghép thường thôi, như rừng núi, biển khơi, đồng áng… nhưng theo thời gian biến đổi, nó trở thành một danh từ ghê tởm và rùng rợn lúc nào chúng ta không hay. Nếu ai chỉ một tên nào đó mà nói “Mầy là thằng Việt Cộng” thì có nghĩa người đó là một người xấu xa nhất trong xã hội hiện nay. Chẳng thà chửi cha người ta, người ta không giận bằng chủi “Mầy là thằng Việt Cộng”. Như vậy đủ biết hai chữ Việt Cộng bị người đời thù ghét như thế nào rồi.

Mà nghĩ cũng đúng thôi. Nhớ lúc tôi còn nhỏ, năm tôi 11 tuổi, còn học ở trường Tiểu học Vĩnh Lợi, cách làng Vĩnh Hựu của tôi chừng ba cây số. Mỗi sáng thứ hai đầu tuần, mẹ tôi phải đưa tôi đến trường và tôi lưu trú tại nhà dì tôi cho đến cuối tuần mới trở về Vĩnh Hựu. Một buổi sáng thứ hai đầu tuần, cũng như mọi khi, mẹ tôi xếp đâu 2 chục trứng gà vào một cái giỏ để khi đưa tôi đến trường xong là mẹ tôi ra chơ bán 2 chục trứng gà đó, lấy tiền mua các thức ăn khô khác. Hai mẹ con đang đi, độ còn nửa đường là tới làng Vĩnh Lợi, thình lình trong một bụi cây rậm rạp, có một người mặc đồ đen, tay cầm khẩu súng ngắn sáng loáng, nhảy ra chận mẹ con tôi lại, quát to: Đứng lại! Anh ta đưa họng súng ngay truớc trán mẹ tôi, rồi đưa sang qua tôi, quơ qua quơ lại trên đầu tôi, hỏi mẹ con tôi có phải đem trứng ra chợ để bán cho Tây không? (Lúc đó, ở tại chợ Vĩnh Lợi, ngay phía bên kia đầu cầu sắt, có một cái đồn của người Pháp đóng tại đó).

Mẹ tôi run run nói: – Dạ thưa ông, đâu phải, tôi đem trứng này ra chợ bán để lấy tiền mua thức ăn. – Chứ không phải mẹ con bà đem lương thực cung cấp cho Tây sao? – Dạ thưa ông, đâu có phải như vậy. – Thôi lần này tôi tha cho mẹ con bà đó, nhưng giỏ trứng thì bị Ủy ban tịch thu. Nhớ lần sau, còn gặp mẹ con bà đem trứng ra chợ như vậy nữa là tôi sẽ bắn bỏ. – Dạ mẹ con tôi đội ơn ông. Thật hú hồn hú vía. Lần đầu tiên trong đời, tôi mới nhìn thấy khẩu súng lục.

Sao nó uy dũng, hiên ngang, trông rất dễ sợ. Và cũng lần đầu tiên trong đời tôi mới biết đó là những kẻ gọi là Việt Minh, những người mặc đồ đen, đầu quấn khăn rằn, rồi sau này trở thành Việt Cộng và hai chữ Việt Cộng đã ám ảnh tôi từ suốt thời bé thơ cho đến khi khôn lớn. Nếu không có lần bị đón đường, bị đe dọa bắn bỏ hôm đó, tôi đã trở thành một tên Việt Minh từ thời trẻ dại này rồi. Nhưng sau lần gặp gã Việt Minh với khẩu súng giết người đó, tôi đã bừng tỉnh giấc mơ bỏ học, trốn cha mẹ để ra bưng biền. Việt Cộng! Chỉ hai tiếng thôi, nhưng sao thiên hạ hoảng hốt, kinh hoàng khi nghe đến nó. Năm 1954, gần một triệu đồng bào miền Bắc, cũng vì hai tiếng này mà phải bỏ hết của cải, quê hương, làng xóm, mồ mả ông bà để chạy vô miền Nam xa lắc xa lơ, trốn khỏi bè lũ Việt Cộng.

Năm 1975 cũng vậy, vì hai tiếng này mà hơn hai triệu người dân miền Nam phải liều chết, bằng đủ mọi cách để lánh xa loài quỷ dữ. Ở thôn quê miền Nam, khi nghe mấy tiếng “Việt Cộng về” hay “Mấy ổng về” là bà con gồng gánh, già trẻ, bé lớn chạy trối chết về phía thành phố để trốn khỏi bọn Việt Cộng. Rồi nào Việt Cộng pháo kích vào thành phố, vào quận lỵ giết hại dân lành, giết hại trẻ thơ nơi trường học. Việt Cộng đào lộ, đấp mô, đặt mìn, phá cầu… Còn Việt Cộng ngày nay thì ngoài tham nhũng còn tội bán nước, buôn dân, bàn tay chúng phạm trăm ngàn thứ tội ác. Việt Cộng ngày nay bán rừng, bán biển, bán giang sơn cha ông cho Tàu, Việt Cộng ngày nay độc ác, tàn nhẫn với dân chúng, nhưng co ro, cúm rúm trước thằng Tàu như sợ ông nội, ông cố của chúng, bắt dân bỏ tù nếu dân đứng lên yêu nước chống lại lũ Hán xâm lăng.

Rồi tôi miên man suy gẫm, không biết những tên như Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, Nguyễn Phú Trọng nghĩ sao – nhưng không biết những tên này có biết suy nghĩ không – chúng có thấy rằng sao mình đi đến đâu, thiên hạ bỏ chạy hết vậy? Mình giành được phân nửa xứ sở miền Bắc, đáng lẽ dân chúng phải ở lại với mình để kiến thiết xứ sở chứ, sao gần cả triệu người lại bỏ chạy vào Nam. Rồi mình cướp được luôn phân nửa miền Nam còn lại, thiên hạ lại ùn ùn bỏ chạy nữa, cả hơn hai triệu người xa lánh mình. Tại sao và tại sao? Chúng không tự đặt câu hỏi đó với chính chúng sao? Mình đi đến đâu thì người ta chạy trối chết khỏi nơi đó. Mình là thứ gì vậy? Nhìn hình ảnh cuộc di cư năm 1954, trên những chiếc tàu há mồm, nhìn những gương mặt hớt hơ hớt hãi, mất hồn, chạy đôn chạy đáo để rời khỏi Saigon tháng tư năm 1975, rồi nhìn những cảnh liều chết vượt biển lên đến cao điểm, từ năm 1975- 1980, nếu chúng là người, chúng phải suy nghĩ chứ? Mình cũng là người như họ, đầu, mắt tay chân cũng đầy đủ như họ, tại sao họ sợ mình mà chạy hết như thế? Mình có phải là quỷ dữ hay ác thú gì đâu? Nhưng tôi nghĩ, Việt Cộng còn đáng sợ hơn là quỷ dữ nữa.

Nhìn lại,ngày nay, đã hơn 60 năm trôi qua, tôi cảm thấy rùng mình, ghê sợ. Từ những việc bắt người cho mò tôm, thả xác trôi sông thuở đó, cho đến những vụ lường gạt, gian dối cướp giật của Việt Cộng ngày nay, nhìn sự dã man tàn ác của Việt Cộng đối với người dân cùng chung máu mủ … thật không thể nào tưởng tượng nổi. Quỷ chỉ nhát, chỉ hù người ta thôi, chứ không hại người ta, mà nếu quỷ có hại thì chỉ hại một người thôi. Còn Việt Cộng hại cả một dân tộc, tiệu diệt tất cả, đất đai, sông biển, núi rừng không còn, nhưng đó là nói về mặt những gì còn nhìn thấy được. Còn về mặt không nhìn thấy được thì là Việt Cộng tàn phá cả đạo đức, dung dưỡng tội ác, giết chết sự trong trắng trong lòng trẻ thơ, đưa nhiều thế hệ con em chúng ta vào vòng tối ám, dạy chúng dối trá, dạy chúng tội ác…

Ngày xưa, chúng đã chiếm được phân nửa nước Việt Nam, tưởng đâu rằng chúng cùng miền Nam thi đua làm cho dân giàu nước mạnh, nhưng như chúng ta đã biết, Việt Cộng cho đến 1975, còn chưa thấy cái thang máy “biết tàng hình” là gì, chưa được nhìn chiếc đồng hồ “12 trụ, 2 cửa sổ, không người lái” là gì, không hiểu cái bồn cầu “để rửa rau” hay để làm gì, trong khi miến Nam lúc đó đã là một trong những quốc gia tân tiến ở Đông Nam Á châu. Rồi lòng tham vô đáy, thực hành chủ nghĩa Cộng sản toàn cầu của chúng, chúng cướp luôn miền Nam.

Thiên hạ lại bỏ chạy, chúng rượt theo ra đến ngọai quốc để áp dụng… 36 kiểu lên đầu lên cổ người đã sợ chúng mà bỏ chạy 36 năm trước. – Nếu tôi có làm anh muôn vàn bực tức, xin anh cứ chửi tôi là thằng mất dạy, thằng láu cá, thằng bỉ ổi, thằng đê tiện, thằng vô học, thằng… thằng gì cũng được, hay bảo tôi là thằng không cha không mẹ, hay là thằng do… con gì sanh ra cũng được nốt, nhưng xin đừng bảo tôi là Việt Cộng.

Mầy là thằng “Việt Cộng”, hai tiếng này nặng lắm, anh biết không? Nói như thế là anh chửi tôi đấy, mà chửi tôi thât nặng, đó là tiếng chửi ghê gớm nhất, đáng sợ nhất trong những tiêng chửi đương thời. Vì hai tiếng này đồng nghĩa với ác nhân, hung đảng, ác quỷ, ác tinh, man di, mọi rợ, lưu manh, gian xảo, côn đồ, thảo khấu… , lọai quỷ quái tinh ma, nghĩa là bọn trời đánh thánh đâm, trời tru đất diệt.

Nhạc sĩ Lê Dinh

https://hoiquanphidung.com/showthread.php?24836-Ph%C3%A2n-bi%E1%BB%87t-Vi%E1%BB%87t-C%E1%BB%99ng-v%C3%A0-kh%C3%B4ng-Vi%E1%BB%87t-C%E1%BB%99ng

Danh Chính Ngôn Thuận: Việt Cộng Hay Cộng Sản?

Cũng như bao nhiêu thực thể khác trong cuộc sống, ngôn ngữ không ngừng tiến hóa. Luật tiến hóa bao gồm sự phát sinh, sự tăng trưởng cũng như sự đào thải.

Hoàn cảnh tự nhiên, xã hội, kinh tế, chính trị… làm sản sinh ra nhiều từ ngữ mới, cũng như làm mất đi nhiều từ ngữ khác. Trong cuộc chiến tranh Việt Nam, rất nhiều từ ngữ mới được ra đời.

Khi cái gọi là Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam được thành lập để che mắt quốc tế (1960), một quân đội đi kèm theo tổ chức khủng bố này cũng được hình thành. Về thực chất, đây chỉ là một tổ chức thân Cộng trá hình, có liên hệ chặt chẽ với chính quyền Cộng Sản miền Bắc. Để phân biệt, người ta gọi lính của quân đội miền Bắc là lính Bắc Việt (hay lính Cộng Sản chính quy) và lính của quân đội Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam Việt Nam là lính Việt Cộng.

Nghĩa chính của hai chữ Việt Cộng là “người Việt theo Cộng Sản,” còn nghĩa rộng của nó đã mang thêm một ý xấu. Người quốc gia miền Nam dùng tên gọi này với thái độ miệt thị, ghê tởm. Ngay cả chính những người Cộng Sản cũng ghét chữ này.

Lúc miền Nam rơi vào tay Cộng Sản vào cuối Tháng Tư, 1975, người dân miền Nam thường truyền miệng với nhau mẩu chuyện vui cười như sau: Một bà mẹ miền Nam bị buộc phải ra đứng đón đoàn quân Cộng Sản tiến vào tiếp thu các thành phố miền Nam cùng với nhiều người khác. Bà chào hỏi một nhóm bộ đội Bắc Việt lẫn du kích Việt Cộng và nói: “Cám ơn mấy anh lắm lắm! Nhờ mấy anh vào giải phóng miền Nam nên từ giờ trở đi chúng tôi không còn sợ bị Việt Cộng pháo kích hằng đêm nữa!” Chẳng biết bà mẹ này vô tình nói ra điều này hay bà chơi chữ cho vui!

Khi chiến tranh chấm dứt, cuộc đổi đời ở miền Nam đã cho ra đời không biết bao nhiêu là từ ngữ mới (hay du nhập từ “miền Bắc xã hội chủ nghĩa”); nào là “vượt biên,” “học tập cải tạo,” “nghĩa vụ quân sự,” “vùng kinh tế mới,” “tư sản mại bản,” vân vân và vân vân. Cùng lúc đó, nhiều từ ngữ cũ cũng không còn lưu dụng như “cảnh sát quốc gia,” “tổng động viên,” “ấp chiến lược,” “hồi chánh”…

Giữa hai thái cực đó là những từ ngữ (chiếm đa số trong tiếng Việt) vẫn tiếp tục được dùng trong nước lẫn ngoài nước. Một trong những chữ đó là chữ kép “Việt Cộng.” Sở dĩ chữ này vẫn còn được dùng là vì cho đến ngày hôm nay chúng ta vẫn còn cần phân biệt ai là “Việt Cộng,” ai là “quốc gia,” hay chí ít cũng là “không Việt Cộng.”

Người viết bài này, cũng như rất nhiều người khác, đã dùng từ ngữ này từ bao lâu nay. Nhưng đến một hôm, tôi giật mình xét lại hai chữ này. Chữ “Việt” tượng trưng cho những gì thiêng liêng nhất: Tổ tiên, tổ quốc, văn hóa, ngôn ngữ, cả hồn thiêng sông núi nằm trong một chữ như thế. Còn chữ “Cộng,” từ hai chữ “Cộng Sản,” là tất cả những gì trái ngược.

Về chủ nghĩa Cộng Sản, đã có biết bao nhiêu danh nhân, nhà thơ, nhà văn, chính trị gia trên thế giới đã nói lên nhận xét của mình. Ở đây, chúng tôi chỉ xin ghi lại một câu của Đức Đạt Lai Lạt Ma mà chắc đa số quý vị cũng đã nghe qua hay đọc thấy: “Cộng Sản là loài cỏ dại, mọc trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc sinh sôi, nẩy nở trên rác rưởi của cuộc đời.”

Như vậy chúng ta nghĩ sao? Để một chữ thiêng liêng như chữ “Việt” bên cạnh một chữ chỉ về một khái niệm chẳng hơn gì loài rác rưởi như chữ “Cộng” liệu có phải là chuyện nên làm hay không? Những người mà chúng ta gọi là “Việt Cộng” không xứng đáng làm người Việt, mà thực ra họ cũng chẳng tha thiết chi làm người Việt. Họ chỉ có quốc tế Cộng Sản là tổ quốc và bản “Quốc tế ca” là “quốc ca” của họ mà thôi.

Khi tôi đem ý nghĩ này nói với với một số bạn bè, có người bảo: “Nghe anh nói thì thấy cũng có lý nhưng nếu không dùng chữ ‘Việt Cộng’ để chỉ về những người đó thì mình biết dùng chữ gì khác đây?” Tôi đáp: “Chúng ta có thể dùng hai chữ “Cộng Sản” để chỉ về họ là đủ rồi.”

Có người lại thắc mắc: “Nhưng không chỉ ở Việt Nam mới có Cộng Sản. Vậy làm sao biết đó là Cộng Sản ở nước nào?” Tôi lại phải đáp: “Thường thì nội dung của câu nói có thể cho ta biết điều đó. Ví dụ như nếu tôi nói “Buổi tưởng niệm cuộc chiến Việt-Trung 1979 ở Hà Nội đã bị công an Cộng Sản phá rối,” chắc các bạn biết tôi nói về ai rồi phải không?”

Một bạn khác vẫn còn ra chiều suy nghĩ: “Vậy thì mình có phải bỏ luôn chữ Trung Cộng không, theo lập luận của anh?” Tôi cười bảo: “Người Trung Hoa không thắc mắc chuyện đó thì thôi, hà cớ gì mà chúng ta phải nhọc trí? Chúng ta chỉ nên lo chuyện của mình, còn trên thế giới mấy nước Cộng Sản còn lại, mình muốn gọi họ thế nào cũng được. Ở Bắc Hàn thì có Hàn Cộng, ở Cuba thì có Cu Cộng, ở Lào thì có Lào Cộng. Khi nào họ phản đối thì hẵng hay.”

Đây chỉ là thiển ý của tôi, xin nói lên đây để chúng ta cùng suy xét. Riêng tôi thì tôi đã bắt đầu thay thế chữ “Việt Cộng” bằng chữ “Cộng Sản” dạo gần đây. Người Mỹ nói “Old habits die hard.” Người Việt mình thì có vẻ “cực đoan” hơn: “Đánh chết cái nết không chừa.” Nhưng tôi quyết phải chừa cái “nết” xấu đó. Mới đầu thì cũng khó khăn, cứ quen miệng nói chữ “Việt Cộng.” Sau dần dần khá hơn một chút, nói đến chữ “Việt…” thì kịp ngưng, rồi đổi qua chữ “Cộng Sản.” Bây giờ thì khá hơn nhiều rồi!

Nghĩ xa xôi về chữ “Việt Cộng” là như vậy đó. Nhưng rồi tôi lại nghĩ xa xôi hơn nữa. Gọi những người nắm quyền bính ở Ba Đình và tay chân của họ là Cộng Sản đã công bình chưa? Nói một cách chung nhất, Cộng Sản xấu thật, ác thật, nhưng những người tự xưng là Cộng Sản ở Việt Nam còn tệ hơn nữa.

Ngày nay chẳng ai trong chúng ta lại không thấy rằng họ chỉ mượn đầu heo nấu cháo, treo đầu dê bán thịt chó, khi áp dụng chủ nghĩa Cộng Sản vào Việt Nam. Trong thâm tâm, họ chẳng tha thiết gì đến mớ lý thuyết của Karl Marx hay của Vladimir Lenin mà kỳ thực chẳng mấy ai trong bọn họ có đủ trình độ thấu hiểu nổi chứ đừng nói chi đến việc áp dụng. Họ chẳng qua là những kẻ cơ hội chủ nghĩa, đánh mùi thấy đi đôi với chủ nghĩa Cộng Sản là sự cai trị độc tài thì hí hửng mang về nước để làm cớ cướp chính quyền.

Vốn chẳng mặn mà gì với chủ nghĩa Cộng Sản trong thâm tâm, khi họ thấy Liên Xô cùng hàng loạt các nước Cộng Sản Đông Âu sụp đổ vào cuối thập niên 1980 của thế kỷ trước, họ vội vàng trở mặt, xoay qua hình thức kinh tế tư bản để sống còn. Để lập lờ đánh lận con đen, họ cố dựng cái xác chết xã hội chủ nghĩa lên, tô son trát phấn cho nó và đặt một cái tên mới thật kêu và rỗng là “kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.”

Bọn người xưng danh Cộng Sản này quả thật rất sính chơi chữ, dùng chữ nào kêu chan chát chữ ấy, nhưng họ cũng thừa hiểu rằng họ chẳng thể lừa ai ngoài chính họ mà thôi. Kinh tế thị trường mà sánh vai với định hướng xã hội chủ nghĩa chẳng khác nào nước lã trộn với dầu ăn, trộn hoài mà “chẳng nên công cán gì.” Lại có một anh đầu sỏ của bọn họ chẳng hiểu vì lú lẫn hay bị thần khẩu nhập xác phàm mà tếu táo nói “đến hết thế kỷ 21 này không biết có chủ nghĩa xã hội hay chưa,” huống hồ là hòng “quá độ” lên đến chủ nghĩa Cộng Sản! Những người này thật tình cũng chưa đáng gọi là Cộng Sản là vì thế.

So với những người Cộng Sản khác trong “phe xã hội chủ nghĩa anh em” thì những người “Cộng Sản” ở Việt Nam lại càng nên xấu hổ. Trong nước, họ thẳng tay đàn áp người dân, về đối ngoại thì họ đang muốn dâng nước nhà cho Tàu Cộng. Những nhóm chữ như “hèn với giặc, ác với dân,” “tàu thì lạ, sự hèn hạ thì quen” vẫn được truyền miệng từ người này sang người khác.

Trong một gia đình, tội bất hiếu là tội lớn nhất. Còn trong một nước, tội phản quốc hay thậm chí tội bán nước là tội tày trời, không còn tội nào nặng hơn thế nữa. Các nước Cộng Sản ngày xưa như Liên Bang Xô Viết, Đông Đức, Ba Lan, Tiệp Khắc… hay những nước Cộng Sản còn lại ngày nay, họ không bành trướng, đi chiếm các nước khác thì thôi chứ chẳng ai thấy họ bán nước cho bất cứ ngoại bang nào.

Chỉ riêng những người gọi là Cộng Sản ở Việt Nam thì đang làm cái chuyện kinh thiên động địa đó. Chẳng vậy mà họ đang tính chuyện loại bỏ môn lịch sử trong học đường. Chuyện đó cũng dễ hiểu, vì trong khi nhà cầm quyền đang lăm le bán nước thì trong lớp học có thầy cô nào còn lòng dạ giảng dạy cho học trò về Lê Chiêu Thống hay Trần Ích Tắc mà không phải nhắc đến những thành ngữ như “mãi quốc cầu vinh,” “cõng rắn cắn gà nhà” hay “rước voi về giày mả tổ” không?

Nói tóm lại, bọn người cầm quyền hiện nay ở Việt Nam chỉ là những kẻ ăn mày dĩ vãng, bám víu vào cái nhãn hiệu Cộng Sản đã lỗi thời và cái thây ma ở Ba Đình là những thứ đã góp phần đưa họ lên đỉnh cao quyền lực ngày nay. Họ thậm chí không đáng được gọi là Cộng Sản.

Tôi chưa đem ý nghĩ thứ hai này ra nói với bạn bè. Tuy nhiên, tôi có thể mường tượng ra một cuộc nói chuyện như thế, trong đó các bạn tôi sẽ kêu lên: “Ơ hay cái nhà anh này! Hai chữ Việt Cộng anh khuyên không nên dùng. Nay thì hai chữ Cộng Sản anh cũng muốn tẩy chay nốt. Thế thì biết dùng chữ gì để chỉ bọn người ấy đây?”

Lúc ấy tôi sẽ cười và bảo: “Cái nhãn đúng đắn nhất mà chúng ta có thể dán lên trán họ chẳng phải tìm đâu cho xa xôi. Hãy cứ gọi bọn họ là ‘lũ bán nước’ là gọn hơn cả. Họ có nhiều tội với dân, với nước lắm, nhưng kết tội bán nước cho họ là đủ lắm rồi. Cũng giống như khi kết tội một người đủ để người đó lãnh án tử hình thì chẳng mất công hài thêm chi những tội khác.”

Copyright © 2023, Người Việt Daily News

Đảng Cộng Sản Việt Nam

Chống phá Đảng Cộng sản Việt Nam là mục tiêu hàng đầu và xuyên suốt của các thế lực thù địch. Chúng dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, tiến hành tác động, phá hoại nội bộ Đảng, làm giảm uy tín, nhằm đi đến xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Tuy nhiên, dù có sử dụng “trăm phương nghìn kế”, các thế lực thù địch cũng không thể phủ nhận được sự thật hiển nhiên về niềm tin của toàn dân ta đối với Đảng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, với những thành tựu to lớn đã được cộng đồng quốc tế thừa nhận cả trên phương diện lý luận, thực tiễn và lịch sử.

THỦ ĐOẠN CỦA CÁC THẾ LỰC THÙ ĐỊCH

Mục đích và thủ đoạn của các thế lực thù địch là gì khi chúng tung ra luận điệu “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước”?

Về chính trị, chúng cho rằng “Ở Việt Nam, công nghiệp chưa phát triển, số lượng, chất lượng công nhân giai cấp công nhân bị hạn chế. Đảng Cộng sản Việt Nam không thể gọi là Đảng của giai cấp công nhân được, nó có rất ít tính công nhân mà mang đậm tính nông dân, chịu ảnh hưởng nặng nề của chủ nghĩa phong kiến”. Vì thế, “giai cấp công nhân và Đảng Cộng sản không thể lãnh đạo, xây dựng được chủ nghĩa xã hội đích thực ở Việt Nam” (!). “Đảng không nên giữ vai trò lãnh đạo chính trị, không nên và không thể lãnh đạo tuyệt đối”. Chúng xuyên tạc Đảng ta đã sai lầm về chính trị khi “vội vàng xóa bỏ” đảng Dân chủ và đảng Xã hội, “tạo điều kiện cho Đảng Cộng sản độc đoán, chuyên quyền, bóp nghẹt tự do, dân chủ”. Chúng kêu gào: “Từ bỏ độc quyền lãnh đạo là vấn đề căn bản vì đó là then chốt của chế độ dân chủ. Đảng cho mình cái quyền đứng trên dân tộc, cái đó không ai chịu chấp nhận”; đòi “xóa bỏ sự lãnh đạo của Đảng”.

Về tư tưởng, chúng cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam lấy chủ nghĩa Mác – Lênin làm nền tảng tư tưởng là sai lầm”, vì rằng “chủ nghĩa Mác – Lênin là ngoại lai, bắt nguồn từ phương Tây, nên không còn phù hợp với Việt Nam”; rằng “Học thuyết Mác là sản phẩm của thế kỷ XIX, do vậy, đem đặt nó trong bối cảnh thế kỷ XXI nếu không lạc hậu, thì cũng chẳng thể là khoa học” (!); “chủ nghĩa Mác đã đóng góp khá nhiều cho lịch sử, đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử rồi, nó không còn phù hợp với thời đại ngày nay”; v.v.

Đối với tư tưởng Hồ Chí Minh, chúng cho rằng, Hồ Chí Minh là nhà “dân tộc chủ nghĩa chứ không phải là nhà mác-xít”; “không thể lấy tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng” vì không phù hợp với điều kiện mới của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế. Đảng Cộng sản Việt Nam đề cao tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, là để “an dân” chứ thực chất không theo Hồ Chí Minh (!?).

Về phương diện tổ chức, chúng tập trung đánh vào các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Chúng cho rằng, nguyên tắc tập trung dân chủ đã lỗi thời, nó chỉ thích hợp với hoạt động của Đảng khi chưa giành được chính quyền, còn hoạt động bí mật hoặc lãnh đạo trong chiến tranh; thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nguyên nhân gây ra độc đoán, chuyên quyền trong Đảng và trong xã hội, không có nhân đạo.

Chúng còn cho rằng, trong Đảng có nhiều phe phái: phe cải cách và phe bảo thủ; trong Đảng còn có các nhóm lợi ích, v.v.

Về đạo đức, chúng bịa đặt, bôi nhọ, nói xấu cán bộ Đảng và Nhà nước, đánh vào sinh hoạt, đạo đức, lối sống các đồng chí lãnh đạo; tung ra nhiều chuyện giật gân trong sinh hoạt của lãnh đạo. Chúng cho rằng, Đảng và đảng viên ngày càng suy thoái, biến chất; tham nhũng, tham ô, lãng phí là căn bệnh trầm kha không thể chữa trị được. Từ đó chúng suy diễn thành “Đảng tham nhũng”, “Nhà nước tham nhũng”…

Thực chất, những “lập luận” trên là thủ đoạn dọn đường cho sự hình thành tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập hòng vô hiệu hóa vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM LUÔN ĐỦ KHẢ NĂNG ĐỂ LÃNH ĐẠO ĐẤT NƯỚC

Giả định rằng, nếu Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không đủ khả năng để lãnh đạo đất nước thì lực lượng nào sẽ có đủ khả năng để thay thế vai trò đó? Các thế lực thù địch thừa hiểu về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng Cộng sản Việt Nam là như thế nào, và ở Việt Nam hiện nay không một tổ chức nào có thể thay thế và làm tốt vai trò lãnh đạo như Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, việc nói là cứ nói, “đòi” là cứ đòi, dù biết là “nói lấy được”, mà đòi thì không được! Vì thế, trong các luận điệu chúng tung ra, rất ít thấy xuất hiện một lực lượng cụ thể, một gương mặt “sáng giá” khả dĩ có thể thay thế vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.

Với lực lượng chính trị như vậy thì chắc chắn con đường mà họ lựa chọn cho đất nước ta sẽ là con đường tư bản chủ nghĩa (TBCN). Khi nắm được quyền lãnh đạo, họ sẽ từ bỏ mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội (CNXH), xóa bỏ thành tựu mà nhân dân ta đã hy sinh bao xương máu mới giành được, sớm đưa đất nước đi vào quỹ đạo của chủ nghĩa tư bản (CNTB).

Về thực chất, cái gọi là “lực lượng chính trị mới” không phải là lực lượng vì dân vì nước, mà chủ yếu là vì quyền lợi giai cấp, vì mục tiêu chính trị phản động. Do đó, một khi lực lượng này lãnh đạo đất nước thì hệ quả tất yếu sẽ là: lái đất nước đi theo con đường TBCN. Theo đó, thì cái lợi trước hết không phải cho nhân dân lao động, cho dân tộc ta mà cho giai cấp bóc lột, cho các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Còn nhân dân ta phải đổ bao xương máu mới giành được độc lập, mới thoát khỏi kiếp nô lệ, là người làm chủ đất nước, làm chủ vận mệnh của mình, thì sẽ phải quay lại địa vị cũ, đất nước lại rơi vào vòng lệ thuộc của các nước tư bản, đế quốc.

Thực tế lịch sử đã chứng minh, sau khi lãnh đạo nhân dân giành được những thành tựu vĩ đại trong Cách mạng Tháng Tám, trong các cuộc kháng chiến giành lại độc lập, thống nhất cho non sông đất nước, Đảng ta tiếp tục lãnh đạo đất nước trong thời kỳ mới – thời kỳ cả nước thống nhất cùng đi lên CNXH. Đất nước chuyển sang giai đoạn mới, vừa có hòa bình vừa có chiến tranh; vừa phải đối phó với kiểu chiến tranh phá hoại nhiều mặt của chủ nghĩa đế quốc và bọn phản động quốc tế, vừa chống lại sự bao vây, cấm vận và cô lập tứ phía. Khó khăn chồng chất khó khăn. Kinh nghiệm lãnh đạo đất nước xây dựng CNXH được tích lũy trong những năm lãnh đạo miền Bắc xây dựng CNXH trong điều kiện đất nước có chiến tranh trước đây tuy rất quý báu, nhưng chừng đó là chưa đủ cho việc lãnh đạo, tổ chức xây dựng và quản lý phát triển đất nước trong điều kiện mới với quy mô và tầm vóc mới. Mọi việc dường như phải làm lại từ đầu, để xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở một nước thuộc địa nửa phong kiến, vừa mới giành được độc lập và vừa bước ra khỏi các cuộc chiến tranh tàn khốc kéo dài 30 năm.

Các chiến sỹ Vùng 2 Hải quân với công tác trang trí, tuyên truyền, cổ động Đại hội XIII bằng panô, khẩu hiệu, bảng ảnh trong đơn vị. (Ảnh: Minh Đức/TTXVN)

Chưa hết, CNXH hiện thực ở Liên Xô và Đông Âu lâm vào khủng hoảng và sụp đổ đã giáng một đòn mạnh vào hệ thống XHCN làm nó tan rã. Đất nước rơi vào một cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng chưa từng có và đang đứng trước nguy cơ của sự sụp đổ. Trong hoàn cảnh lịch sử ngặt nghèo ấy, bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng được phát huy và thể hiện trong điều kiện thực tiễn mới. “Đổi mới hay là chết” đó không chỉ là khẩu hiệu mà còn là mệnh lệnh của những con tim và khối óc có đủ sự nhiệt huyết và sự tỉnh táo để đưa đất nước thoát khỏi sự hiểm nguy.

Đảng Cộng sản luôn là người lãnh đạo tiên phong, “đứng mũi chịu sào” chèo lái con thuyền dân tộc vượt qua mọi thác ghềnh hiểm nguy. Trớ trêu thay, trong những lúc đất nước khó khăn và lâm nguy như vậy, đã không có một lực lượng nào, một tổ chức nào đồng lòng cùng chung tay gánh vác trách nhiệm trước non sông, đất nước, dân tộc và nhân dân. Trái lại, chỉ thấy nhưng tiếng kêu la, oán thán, những điều chỉ trích, gây chia rẽ phân tâm, làm ngã lòng người từ phía các thế lực thù địch và cơ hội… Thực tiễn lịch sử lại cho thấy một lần nữa, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng lãnh đạo xứng đáng và tin cậy của dân tộc và nhân dân Việt Nam; lịch sử và nhân dân Việt Nam lại một lần nữa tin tưởng trao cho Đảng sứ mệnh lãnh đạo dân tộc, dẫn dắt giống nòi tiến bước cùng thời đại. Đó là sự thật hiển nhiên không phải bàn cãi.

LUẬN CỨ PHÊ PHÁN

Cơ sở lý luận

Thứ nhất, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội là cần thiết, tất yếu, khách quan.

Vấn đề Đảng Cộng sản cầm quyền là một trong những nội dung quan trọng được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đề cập. Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã chỉ rõ: giai cấp công nhân là giai cấp cách mạng nhất, tiên tiến nhất, giai cấp có sứ mệnh lịch sử đào huyệt chôn CNTB. Nhưng muốn thực hiện được sứ mệnh lịch sử của mình thì giai cấp công nhân phải có “đội tiên phong với lý luận tiên phong và hành động tiên phong” để lãnh đạo. Đội tiên phong chính là Đảng Cộng sản – bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân. C.Mác và Ph.Ăngghen đã chứng minh, chính đảng của giai cấp công nhân ra đời là một đòi hỏi tất yếu khách quan của cuộc đấu tranh giai cấp cần có lực lượng lãnh đạo giai cấp thực hiện sứ mệnh lịch sử thế giới của mình. Ph.Ăngghen cho rằng, Đảng Cộng sản ra đời là điều kiện tiên quyết để bảo đảm cho cách mạng XHCN giành thắng lợi và thực hiện được mục tiêu cuối cùng của nó là thủ tiêu giai cấp.

Kế thừa tư tưởng trên của Mác – Ăngghen, Lênin khẳng định: “Về nguyên tắc, Đảng Cộng sản phải giữ vai trò lãnh đạo, đó là điều không còn phải nghi ngờ gì nữa”(1). Bởi Đảng Cộng sản là đội tiên phong giác ngộ có tổ chức, và là tổ chức chặt chẽ nhất của giai cấp công nhân và nhân dân lao động, chỉ có Đảng Cộng sản mới có đủ phẩm chất chính trị và năng lực, xứng đáng là người lãnh đạo xã hội mới. Lênin cũng chỉ rõ: “Đảng Cộng sản…. cầm quyền tức là Đảng không chỉ lãnh đạo Nhà nước mà là lãnh đạo cả xã hội”(2). Và trong điều kiện cầm quyền đó, Đảng phải là “trí tuệ, danh dự và lương tâm của thời đại”(3).

Giải đáp vấn đề “Cách mệnh trước hết phải có cái gì?”, Hồ Chí Minh chỉ rõ “trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Đảng có vững mạnh mới thành công, cũng như người cầm lái có vững thì thuyền mới chạy”(4). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Đây là một bước ngoặt lịch sử trọng đại, chấm dứt cuộc khủng hoảng kéo dài về tổ chức và đường lối của cách mạng Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. “Nó chứng tỏ rằng giai cấp vô sản ta đã trưởng thành và đủ sức lãnh đạo cách mạng”(5).

Thứ hai, Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà nước và xã hội là chính danh, hợp hiến và hợp pháp.

Trên thế giới, việc quy định về đảng chính trị trong Hiến pháp mang tính phổ biến. Chẳng hạn: Hiến pháp của Thụy Sĩ, Hàn Quốc, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc có 1 điều; Hiến pháp của Thổ Nhĩ Kỳ, Ucraina, Ba Lan có 2 điều; Hiến pháp Udơbêkixtan có 3 điều,… quy định về đảng chính trị(6).

Các bản Hiến pháp nước Cộng hòa XHCN Việt Nam năm 1980, năm 1992 và năm 2013 đều có 1 điều quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam… là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội”(7), là phù hợp với xu hướng chung của thế giới hiện nay, không phải là cá biệt.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) khẳng định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà nước và xã hội Việt Nam”(8). Điều lệ Đảng quy định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền… Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy”.

Thứ ba, Đảng đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”(9). Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là sản phẩm của sự kết hợp chủ nghĩa Mác – Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Trên thực tế, Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Mục đích của Đảng là xây dựng nước Việt Nam độc lập, dân chủ, giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh, không còn người bóc lột người, thực hiện thành công CNXH và cuối cùng là chủ nghĩa cộng sản.

Cơ sở thực tiễn

Thứ nhất, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được khẳng định trong thực tế tiến hành cách mạng và được nhân dân thừa nhận.

Thực tiễn Việt Nam đã từng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam còn tồn tại hai đảng đối lập là Việt Nam Quốc dân Đảng và Việt Nam Cách mạng Đồng minh Hội. Hai đảng này không đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc và nhân dân, mà bám gót ngoại bang, nên không được nhân dân chấp nhận.

Có thời kỳ, bên cạnh Đảng Cộng sản Việt Nam còn có Đảng Dân chủ Việt Nam (1944 – 1988) và Đảng Xã hội Việt Nam (1946 – 1988), nhưng các đảng ấy cũng không được đa số nhân dân giao cho sứ mệnh lịch sử lãnh đạo cách mạng. Các đảng ấy, đều tuân thủ đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân giao phó, ủy thác. Sau đó hai đảng này tuyên bố tự giải thể và chỉ còn lại Đảng Cộng sản Việt Nam. Như vậy, vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là hiển nhiên, là sự lựa chọn và giao phó của lịch sử, của nhân dân và dân tộc Việt Nam, Đảng không tranh giành vai trò lãnh đạo với bất kỳ đảng phái nào.

Trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay, Đảng ta là đảng cầm quyền chính là thông qua việc nắm quyền, Đảng thực hiện sứ mệnh lãnh đạo xã hội, lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo nhân dân, để đạt được mục tiêu cách mạng mà Đảng và dân tộc đều đồng thuận.

Thứ hai, vai trò lãnh đạo lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã được thực tế kiểm nghiệm, nhất là vào những bước ngoặt của lịch sử.

Từ khi ra đời cho đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ, vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách và giành được những thắng lợi vĩ đại: thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, đập tan ách thống trị của thực dân, phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do; thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ quốc tế, đưa cả nước đi lên CNXH.

Đặc biệt, dưới sự lãnh đạo của Đảng, công cuộc đổi mới đã thu được nhiều thắng lợi: đất nước đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử, phát triển mạnh mẽ, toàn diện so với những năm trước đổi mới; quy mô, trình độ nền kinh tế được nâng lên; đời sống nhân dân cả về vật chất và tinh thần được cải thiện rõ rệt; đất nước chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín như ngày nay.

Tuy nhiên, trong lãnh đạo, Đảng có lúc phạm sai lầm, khuyết điểm, có những sai lầm nghiêm trọng. Đảng đã nghiêm túc tự phê bình, sửa chữa khuyết điểm, tự đổi mới, chỉnh đốn để tiếp tục đưa sự nghiệp cách mạng tiến lên. Nhưng, một số kẻ thù địch, cơ hội chính trị lại không thấy hoặc cố tình lờ đi điều ấy, hơn thế, họ còn thổi phồng những khuyết điểm, sai lầm của Đảng và quy kết Đảng không đủ năng lực lãnh đạo trong điều kiện mới của đất nước. Rõ ràng đây là một sự xuyên tạc, vu cáo Đảng ta, nhằm kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.

Thứ ba, nhân dân Việt Nam đã thừa nhận và ủy quyền Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng.

Quan hệ Đảng – dân là mối quan hệ bản chất và máu thịt của Đảng ta. Ngay từ khi ra đời Đảng luôn gắn bó mật thiết với nhân dân, phục vụ nhân dân, được nhân dân thương yêu, đùm bọc, che chở và xây dựng. Hơn 90 năm đi theo Đảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng, các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận rõ hơn ai hết, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, không có một lực lượng, một tổ chức nào có thể đại diện chân chính cho lợi ích của mình. Vì thế, nhân dân tin tưởng ủy thác trao quyền lãnh đạo cho Đảng Cộng sản Việt Nam.

Thực tế cách mạng Việt Nam cho thấy, sự lãnh đạo của Đảng đối với đất nước là sự lựa chọn tất yếu của lịch sử, là ý nguyện của nhân dân. Vì thế, các tầng lớp nhân dân mong muốn Đảng luôn giữ vững vai trò lãnh đạo, không chia sẻ quyền lực với các lực lượng khác khác trong vai trò cầm quyền của mình. Bởi đó là nguyên tắc đã được được hiến định và là một kết quả tất yếu của lịch sử cách mạng Việt Nam, không thể thay đổi

Quan hệ Đảng – dân là mối quan hệ bản chất và máu thịt của Đảng ta. Thứ tư, ở Việt Nam, không có một lực lượng chính trị nào khác, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam có đủ bản lĩnh, trí tuệ, kinh nghiệm, uy tín và khả năng lãnh đạo đất nước và xã hội.

Tuyệt đại đa số nhân dân mong muốn Đảng tự chỉnh đốn, khắc phục các khuyết điểm, yếu kém để hoàn thành sứ mệnh của mình là lãnh đạo Nhà nước và xã hội. Để xứng đáng với sự tin cậy của nhân dân, Đảng đã đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn, làm cho Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong, vai trò của Đảng cầm quyền và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng trong giai đoạn mới. Đặc biệt, Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay” đã đề ra bốn nhóm giải pháp giải quyết những vấn đề cấp bách trong công tác xây dựng Đảng, trong đó nhóm giải pháp thư tư nêu rõ việc phát huy vai trò, trách nhiệm của quần chúng nhân dân trong nhiệm vụ xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay.

Tóm lại, quan điểm cho rằng “Đảng Cộng sản Việt Nam đã hết vai trò lịch sử, không còn đủ khả năng để lãnh đạo đất nước” là quan điểm sai lầm, phản khoa học, phi thực tế. Quan điểm này dựa trên những lập luận mang tính chủ quan, võ đoán, thiếu căn cứ khoa học, bất chấp đạo lý và lẽ phải thông thường, phiến diện và phi lôgic. Thực tiễn cách mạng Việt Nam và những thành quả mà nhân dân ta đạt được, dưới sự lãnh đạo của Đảng hơn 90 năm qua, đã hoàn toàn bác bỏ quan điểm sai trái, thù địch đó và chứng minh Đảng Cộng sản Việt Nam là lực lượng duy nhất có đủ khả năng lãnh đạo đất nước thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh”, xây dựng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân./.

PGS. TS. PHAN TRỌNG HÀO

Luận Về Cụm Từ Việt Cộng

30-4-2023

Ai cũng biết Việt Cộng là cộng sản Việt Nam, nhưng theo sách sử cụm từ lại mang nhiều ý nghĩa khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.

Vào đầu năm 2023, nghiên cứu sinh sử Viện Đại Học Wisconsin-Madison, Brett Reilly công bố trên trang The Diplomat bài “Cội nguồn đích thực của cụm từ Việt Cộng”.

Brett Reilly cho biết đã phát hiện hai điều (1) cụm từ Việt Cộng và (2) cuộc nội chiến Quốc-Cộng đã khởi đầu từ những năm 1920 tại miền Nam Trung Hoa, hơn ba thập niên trước khi người Mỹ tham chiến tại Việt Nam.

Như vậy cuộc chiến Quốc-Cộng đã kéo dài gần trăm năm, vẫn còn tiếp diễn, thách thức phải viết lại lịch sử chiến tranh Việt Nam

Cứ mỗi tháng 4, cụm từ Việt cộng lại thường xuyên được nhắc đến trong cộng đồng người Việt hải ngoại, nhân 44 năm Sài Gòn thất thủ, xin được tóm tắt công trình nghiên cứu của Brett Reilly và giải thích lý do vì sao đảng Cộng sản Việt Nam luôn dị ứng khi được gọi chính danh là Việt Cộng.

Sách sử chính thống

Tự điển, sách sử, báo chí ngoại ngữ đều định nghĩa Việt Cộng là những du kích quân cộng sản chống lại quân đội và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa trong giai đoạn 1954-75.

Tác giả quyển “Victory at any cost” (Chiến thắng bằng mọi giá) Cecil B. Currey còn quả quyết rằng cụm từ do Thiếu tướng tình báo Mỹ Edward Lansdale cố vấn cho Tổng thống Ngô Đình Diệm nghĩ ra từ tiếng Anh Vietnamese Communists – Vietcong.

Lansdale nhận thấy các cán bộ Việt Minh hoạt động ở miền Nam sau 1954 là những người vừa đánh bại quân Pháp nên có uy tín với dân là mối đe dọa quyền lực của Tổng thống Ngô Đình Diệm, nên đề nghị ông Diệm đừng gọi họ là Việt Minh mà gọi bằng một tên mới là Việt Cộng, để người dân miền Nam lầm tưởng rằng đây là 2 lực lượng khác nhau.

Từ đó các sử gia Mỹ theo trường phái chính thống lập luận rằng Mỹ phạm sai lầm khi tham gia chiến tranh, biến xung đột của những người nổi dậy có tinh thần dân tộc tại miền Nam thành chiến trường chiến tranh lạnh giữa Mỹ, Nga và Tàu.

Còn các sử gia theo trường phái xét lại cho rằng Việt Cộng là cụm từ thích hợp để minh hoạ việc Nga, Tàu và Bắc Việt lãnh đạo cuộc nổi dậy tại miền Nam, Mỹ tham gia để ngăn chặn sự lan rộng của cộng sản xuống vùng Đông Nam Châu Á.

Qua nghiên cứu, Brett Reilly biết được cụm từ Việt cộng bắt nguồn từ tiếng Trung Hoa “zhonggong” phát âm tiếng Việt là “Trung cộng”.

Cụm từ này đã được những người Việt bị Pháp truy lùng phải trốn sang miền Nam Trung Hoa vào những năm 1920 sử dụng.

Việt Cộng chỉ những người Việt theo chủ nghĩa quốc tế cộng sản, còn những người Việt theo chủ nghĩa quốc gia được gọi là Việt Quốc.

Nội chiến bắt đầu…

Một cụm từ khác được Brett Reilly đề cập tới là cụm từ Việt gian cũng bắt nguồn tiếng Trung Hoa “Hanjian” phát âm là Hán gian chỉ những người Trung Hoa phản quốc.

Cuối thập niên 1920, khi Quốc Dân Đảng Trung Hoa nhận định rằng chủ nghĩa quốc tế cộng sản thực chất chỉ là chủ nghĩa thực dân kiểu mới của nước Nga Sô viết và như thế Trung Cộng những người Trung Hoa theo cộng sản là Hán gian phản quốc.

Cuộc chiến này ảnh hưởng đến Việt Cộng và Việt Quốc, một bên theo Mao còn bên kia theo Tưởng, khơi mào cuộc nội chiến ý thức hệ giữa những người Việt chống Pháp lưu vong tại miền Nam Trung Hoa.

Nhập cảng Việt Nam…

Theo Brett Reill, cuộc chiến lan sang miền Bắc Việt Nam, các bên tiến hành theo dõi lẫn nhau và thỉnh thoảng lại ám sát những kẻ mà họ nghi là người được phía bên kia trà trộn vào.

Trên Tràng An Báo, xuất bản tại Huế, năm 1938, Cụ Phan Bội Châu tuyên bố những người theo cộng sản là:

“những người lợi dụng chủ nghĩa xã hội nhằm chia rẽ đất nước, phá hoại sự thống nhất, tiêu diệt tinh thần quốc gia, dân tộc”.

Đáp lại, ông Võ Nguyên Giáp và ông Trường Chinh, hai lý thuyết gia cộng sản, trên tờ báo Pháp thiên tả Notre Voix (Tiếng Nói của Chúng Ta), tuyên bố Cụ Phan Bội Châu là “tên phản quốc”.

Có thông tin cho biết chính lãnh tụ cộng sản Nguyễn Ái Quốc đã báo cho thực dân Pháp bắt Cụ Phan Bội Châu để lãnh thưởng.

Trận chiến Quốc-Cộng không chỉ diễn ra gay gắt trên các cột báo, mà còn diễn ra bên trong hệ thống nhà tù thuộc địa.

Một bản sao cương lĩnh 12 điểm, năm 1935, của Việt Nam Quốc dân đảng, được tìm trong nhà tù ở Hà Nội, liệt kê hai mục đích đầu tiên của đảng là nâng cao nhận thức về dân tộc Việt Nam và xoá bỏ chủ nghĩa cộng sản.

Ở nhà tù Côn Đảo, cuộc xung đột ý thức hệ dẫn đến những trận thanh toán gây chết người. Trần Huy Liệu, từng là Bí thư kỳ bộ Nam kỳ Việt Nam Quốc dân đảng, theo cộng sản khi bị tù tại Côn Đảo, hồi tưởng: “Gió biển lạnh lẽ ở Côn Đảo không thể xua tan được bầu không khí căm thù bao quanh hòn đảo”.

Việt Minh cướp chính quyền 19/8/1945

Sau một giai đoạn rất ngắn hợp tác, hai phía Quốc-Cộng lại sử dụng từ “Hanjian” – Hán gian cho các đối tượng được họ ghép cho là Việt gian phản quốc, khởi động cuộc nội chiến đẫm máu.

Các đơn vị Việt Minh trung thành với Võ Nguyên Giáp tấn công các đảng quốc gia, buộc những người quốc gia một lần nữa phải trốn sang Trung Hoa.

Những người theo cộng sản đệ tam giết cả những người cộng sản đệ tứ, những tổ chức yêu nước không bị ảnh hưởng của Tưởng Giới Thạch, những giáo phái yêu nước như Đạo Hòa Hảo, Đạo Cao Đài, giết tất cả những ai không chấp nhận sự thống trị của cộng sản đệ tam.

Khi chiến tranh giữa Việt Minh và Pháp bùng nổ vào cuối năm 1946, những nhóm người Việt yêu nước không theo cộng sản liên kết với nhau, chịu sự lãnh đạo của cựu hoàng Bảo Đại và cộng tác với Pháp để từng bước giành độc lập bằng biện pháp hòa bình và hợp tác.

Khi người Mỹ cắt viện trợ và ngừng bán vũ khí cho chính phủ Tưởng Giới Thạch, các lực lượng Trung Cộng do Mao Trạch Đông lãnh đạo ngày càng tiến gần đến biên giới phía Bắc.

Theo Brett Reill đến năm 1948, những tờ báo có tinh thần dân tộc chống Pháp đã sử dụng cụm từ Việt Cộng, như trên tờ Tiếng Gọi của Việt Nam Quốc Dân Đảng đã có bài báo động:

“Nếu quân đội Việt Cộng có thể bắt tay với Trung Cộng ở biên giới Trung Việt, thì cái gì ngăn cản được quá trình cộng sản hóa Việt Nam?”

Nếu cụm từ Việt Cộng có nghĩa xấu, thì nó chỉ xấu vì các đảng quốc gia đã liên kết người cộng sản Việt Nam (Việt Cộng) với người cộng sản Trung Hoa (Trung Cộng).

Đến năm 1950, Trung cộng viện trợ cố vấn, quân sự, kinh tế, Việt Minh bắt đầu chuyển thành nhà nước toàn trị, thực hiện chỉnh huấn, chỉnh quân, cải cách ruộng đất theo đường lối Mao Trạch Đông.

Chính quyền Quốc gia dưới sự lãnh đạo của cựu hoàng Bảo Đại thường xuyên sử dụng cụm từ Việt Cộng trong các thông tin chính thức để tố cáo ban lãnh đạo Việt Minh là cộng sản.

Tổng thống Ngô Đình Diệm và chính phủ Việt Nam Cộng Hòa do đó chỉ kế thừa việc sử dụng cụm từ Việt Cộng để gọi tất cả những người Việt theo cộng sản không kể Bắc Nam.

Công trình nghiên cứu Brett Reill chấm dứt ở đây, để lại một câu hỏi lớn là những người miền Nam thua cuộc vẫn luôn hãnh diện với danh xưng Việt Quốc hay người Việt quốc gia, còn ngược lại đảng Cộng sản Việt Nam mặc dầu thắng trận lại luôn dị ứng khi bị nêu đích danh là Việt Cộng.

(Xin xem bài https://thediplomat.com/2023/01/the-true-origin-of-the-term-viet-cong/)

Sự thật lịch sử

Nếu Hồ Chí Minh có hằng trăm tên, tuổi, bút danh, thay đổi tùy tình hình quốc tế cộng sản và hoàn cảnh cách mạng Việt Nam thì đảng Cộng sản cũng thế.

Đảng Cộng sản từng bỏ cả tên cộng sản, để lấy tên Hội Truyền Bá chủ nghĩa Mác-Lênin, đảng Lao Động, đảng Nhân Dân Cách Mạng, hay lập ra hai đảng ngoại vi là đảng Dân Chủ và đảng Xã Hội.

Trong từng thời kỳ đảng Cộng sản còn sử dụng các tổ chức như Thanh Niên Cách Mạng Đồng Chí Hội, Việt Minh, Mặt trận Giải Phóng miền Nam, nhiều các tổ chức ngoại vi khác để hoạt động cộng sản.

Nếu Hồ Chí Minh phải lấy bút danh nhà báo C.B. (Của Bác) để viết bài “Địa Chủ Ác Ghê” trên báo Nhân Dân đấu tố đến chết điền chủ Nguyễn thị Năm.

Thì đảng Cộng sản cũng phải sử dụng đảng Nhân Dân Cách Mạng, Mặt trận giải phóng miền Nam, Chính phủ Cách Mạng Lâm Thời miền Nam Việt Nam, để đánh lừa dư luận, chiến tranh tại miền Nam là cuộc nổi dậy của người miền Nam yêu nước, không do cộng sản miền Bắc lãnh đạo.

Ở nông thôn người dân thường xuyên bị Việt Cộng đe dọa, bị khủng bố, bị xử tử hay bị bắt lên rừng giam cầm đến chết.

Ở thành thị Việt Cộng càng ngày càng gia tăng đặt bom hay pháo kích khủng bố.

Biến cố Mậu Thân 1968, Việt Cộng tấn công Thủ đô Sài Gòn và nhiều thành phố lớn tại miền Nam giết và bắt lên rừng hằng chục ngàn thường dân.

Riêng tại Huế lên đến 5,000 người bị giết hay chôn sống, nhiều ngàn người khác bị bắt lên rừng không có ngày về.

Chiến tranh càng gia tăng thì hình ảnh tội ác Việt Cộng càng được phổ biến trên Đài Truyền Hình hay qua báo chí.

Cụm từ Việt Cộng trở thành ác mộng thành nỗi kinh hoàng của người dân miền Nam.

Khi chính phủ Hoa Kỳ bỏ cuộc “cút” khỏi miền Nam, nhiều người ở thôn quê, ở thị xã hay tỉnh nhỏ sợ Việt Cộng phải bỏ nhà cửa, ruộng vườn lên Sài Gòn hay các thành phố lớn.

Tháng 3/1975, khi Tổng Thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh rút quân, thì từng đoàn người Kinh bỏ nhà, bỏ cửa, đồng bào Sắc Tộc bỏ buông làng dìu dắt chạy trốn Việt Cộng.

Cuộc rút quân (và rút dân) hoàn toàn thất bại, quân đội Bắc Việt kéo vào tiếp thu Huế, Đà Nẵng, rồi cuối cùng tiếp thu Sài Gòn ngày 30/4/1975.

Sau ngày tang thương này, người miền Nam bị tù cải tạo, bị đánh tư sản, bị đi kinh tế mới, cả một guồng máy cai trị từ miền Bắc đưa vào, đến công an khu vực cũng là người miền Bắc, buộc người miền Nam phải bỏ nước ra đi.

Với người miền Nam cụm từ Việt Cộng vẫn là nỗi kinh hoàng luôn ám ảnh, như chiến tranh Quốc-Cộng gần trăm năm vẫn chưa chấm dứt.

Đảng Cộng sản sợ sự thật về mối liên hệ gắn bó từ tư tưởng đến hành động với đảng Cộng sản Trung Hoa – “zhonggong” – Trung Cộng, sợ sự thật về chiến tranh Việt Nam và tội ác họ đã gây ra cho dân tộc Việt Nam.

Họ sợ sự thật lịch sử bởi thế họ rất dị ứng khi được nêu chính danh là Việt Cộng.